Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn
Thơ Văn 2020
Thơ Văn 2019
Thơ Văn 2018
Thơ
2017 - 2022
Thơ Văn 2023
Sinh nhật
Chuyện về nguồn
Nhớ Cha
Thu chiều… lặng lẽ
Chim kêu… nỗi lòng
Nhìn Thu … Thương Phận
Huynh đệ chi binh
Quanh thau rượu
Hoàng hôn bên
đồi
Nén hương
mùa kiếp nạn
Tháng Tư… Trang
sử…
Thằng
lính già thương cảm
Thằng lính
già cô độc
Thằng lính
già ngủ mơ
Thằng lính
già hoài niệm
Thằng lính
già nhớ bạn
Phục Sinh
nhiệm màu
Thương tích
Nửa đêm tỉnh
giấc
Vá cờ
Xuân...và Quê tôi
Đã 50 năm
Ai nợ ai…?
Nỗi lòng viễn xứ
Quà tặng
Quê hưong
ngàn trùng
Đừng gọi tôi
là ân nhân
Mùa Thu đất
khách
Quê hương
tôi đánh mất
Từ biệt đồng đội
Dậy đi em
Ngày chia tay
Hương xưa của tôi
Nặng trĩu niềm dau
Nổi sầu muôn thuở
Thương em…
Đếm Sao…
Hè về không
Phượng đỏ
Về thăm chốn xưa
Dòng Đời …
Ước mơ Phá Tam
Giang
Ánh trăng xưa
Anh hùng tử,
khí hùng bất tử
Một bài thơ không tên
45 năm đợi chờ & mơ ước
Sài Gòn yêu
Ngày đại thọ
Lòng sơn gửi tạm
giữa đất trời
Mông lung
Hòn khô
Đêm ngủ tôi mơ
Cali mùa hạnh ngộ
Nhớ mãi
Vẫn tìm em
Tháng tư hành
Gánh phù vân
Quốc hận
Nhắn lời
I am a soldier
born to die
Tháng 2! Xuân vẫn
ngát hương đời
Nhớ xuân xưa
Xin em
Cũng đành thôi
Đêm xuân nhớ mẹ
Mừng sinh nhật
Phút cuối
Đoản khúc Đà Lạt
Chờ
Hương lòng
Nỗi lòng biết ngỏ
cùng ai ?
Cho anh
nói lời xin lỗi với thằng em
Hồn thức giấc
Khóc cho người nằm
xuống
Vọng cố hương… nỗi
nhớ
Nỗi niềm riêng
Hương xưa của tôi
Mùa Trạng Nguyên
Có nhiều quyển sách nói người tù cải tạo ở miền Bắc nhưng rất ít ai
nói về thân phận người tù miền Nam. Tôi chỉ là một trong hàng chục
ngàn tù cải tạo trong Nam và mạn phép ghi lại những gì mình đã sống
trong suốt sáu năm dài.
...Năm 1972 đang là sinh viên năm thứ hai đại học Khoa Học thì bị
động viên vào lính, tình nguyện về tiểu đoàn 5 TQLC, đại đội 4. Bị
thương trong năm 1973 và thuyên chuyển về TTHL/TQLC cho đến ngày tan
hàng gãy gánh. Cựu trung đội trưởng bộ binh, cựu huấn luyện và cấp
bậc thiếu uý, tôi đi tù vào tháng 6 năm 1975.
Sinh trưởng và lớn lên tại Biên Hoà tôi và các bạn bè khác trong
tỉnh được đưa đến trại 8 để cải tạo.
Phú Lợi, Bình Dương có 3 trại, đó là trại 8, 9, 10 thuộc liên trại
3. Xin nói thêm trại 8 bao gồm những anh em sống tại Biên Hoà, những
ai sống bên kia sông Đồng Nai thì vào trại 9 và trại 10 là những anh
em cư ngụ tại tỉnh Bình Dương.. Trong phạm vi bài này, tôi bỏ qua
tất cả những bài học tẩy nảo, bỏ luôn những lời tuyên truyền láo
khoét của các chính trị viên mà chỉ nói lên nổi vui buồn của mình
trong suốt 6 năm tù.
Phú lợi nơi tôi cải tạo là khu gia binh củ của một sư đoàn 5 BB, khu
nhà tiền chế chỉ còn những cây cột gổ thông ọp ẹp , toàn bộ bên
trong hoàn toàn trống trải. Phân chia tổ, nhóm xong xuôi chúng tôi
bắt đầu cuộc đời mới. Đời tù tội...Phú Lợi là vùng đất cao cho nên
không thể đào giếng được, chúng tôi gần 500 con người trông chờ vào
xe bồn hàng ngày mang nước đến. Dỉ nhiên ưu tiên cho bọn cán bộ
khung, bọn vệ binh sau đó là nhà bếp và cuối cùng là tù. Những ngày
đầu là một hoạt cảnh mà thượng đế cũng phải lắc đầu: Thùng to, nhỏ
đủ hình dáng từ tròn vuông méo được gò từ tôn cho đến cái lon gô bé
xíu. Chúng xếp thành hàng dài cả cây số. Vì sự khan hiếm nước mà có
màn gấu ó, cãi cọ thiếu điều đánh lộn nhưng rồi cũng được dàn xếp êm
xuôi của bạn bè. Sống chung chạ thiếu nước để xài, vệ sinh cá nhân
bị hạn chế cho nên ghẻ bắt đầu hoành hành. Thoạt đầu là những mụn
nước ở kẽ tay, chân sau đó ngứa, ngứa kinh khủng. Cứ nhìn anh chàng
đang gãi ghẻ mà thấy buồn cười: Mặt đần ra như phê thuốc lào, nước
miếng ứa ra bên mép, tay đưa lên xuống như chơi đàn guita và sau đó
mặt nhăn lại như khỉ ăn ớt , miệng suýt xoa vì đau đớn. Sau kẽ tay,
chân là toàn thân và cái hung hiểm nhất là bọn ghẽ tấn công vào chổ
kín. Không có gì thô tục cho bằng là thọc tay vào quần mà gãi, gãi
mê thôi, thậm chí có anh kéo quần nhòm xuống...Trời ạ! anh ta đang
xác định cái của quí còn tốt hay banh xà rông rồi
-Mẹ kiếp! Bắn tao một phát còn sướng hơn là cái của nợ đang biến
thành miếng thịt ôi
Sau vụ ghẽ là một chuyện tức cười khác, khó tin mà có thật. Số là
trong tổ 7 có Nguyển văn Vinh, chúng tôi gọi là Vinh thiền bởi vì
anh tập Yoga cho nên có những tư thế lạ mắt và thật nhuyển. Chính
cái tư thế này mà lắm anh tò mò, hiếu kỳ lần mò tới và chuyện xãy
ra:
-Tại sao cứ phải lệ thuộc vào cái ăn, cái uống như thế? Chung quanh
có hàng khối thực phẩm đang chờ sẳn, chúng ta nên tận dụng chúng để
nuôi sống bản thân.. Anh Vinh tuyên bố rất hách
Thế là bao cái mõ nhao nhao chất vấn
-Khí trời...Chúng ta hãy tận dụng cái ưu đãi thiên nhiên này
Thế là cái lớp học Yoga với khí trời làm thực phẩm được một số anh
em hoan hô quá trời. Tôi không biết nó đi đến đâu nhưng sau đó với
khuôn mặt xanh lè, đi đứng khật khừ như thằng người gổ thì lớp học
này không trụ được. Năm đầu tiên là năm khởi đầu nhưng lại là quyết
định cho đời tù tội lâu hay mau. Bài thu hoạch, bản tự khai là yếu
tố cho các quản giáo quyết định . Những ai thành khẩn khai thật,
khai hết với cách mạng là tốt, là tự giác và kết quả là một đoàn xe
Molotova bít bùng đến xúc tất cả mang đến nơi khác . Cái khôi hài là
những ai có thân nhân với cách mạng thì viết dài, viết 3 đời ông cố
tổ có công và che che giấu giấu trông thật bẩn và ngay trong vài
tháng đầu có 2 người ra về. Đó là Mai Huỳnh Lâm, con của Mai Văn Bộ
thứ trưởng ngoại giao phụ trách Đông Âu, anh Lâm học cùng thời với
tôi và phục vụ Sư Đoàn 3 KQ, người thứ hai là một thiếu tá phục vụ
Bộ TTM khoá 17 Vỏ Bị, kế tiếp là 2 bác sỹ tên Hoàng và Dân. Riêng
tôi thì cứ là trung đội trưởng bộ binh mà khai tới nếu bị vặn hỏi
thì trã lời là bị thương. Hồi trong quân trường Thủ Đức với 4 tuần
huấn nhục, các huynh trưởng khoá 4/71 đã từng la làng với đàn em: Tự
giác là tự sát. Nhớ lời vàng ngọc ấy, tôi cứ thế mà khai trong thu
hoạch, chắc ăn hơn tôi viết lại làm nháp cho những lần tới.. Tôi
không hiểu tại sao có nhiều bạn bè ngây thơ đến nổi là khai mình
không có tội với cách mạng. Thí dụ như Châu Tự Do:
-Tôi là sỹ quan làm văn bằng ở Bộ TTM, không cầm súng và chả bắn đến
một viên đạn cho nên không có tội với ai cả
Hoặc bác sỹ Dương Văn Hoàng phát biểu:
-Là bác sỹ ở bệnh viện 3 dả chiến, tôi cứu người, trị bệnh nên không
có tội với cách mạng
Thế là tên quản giáo Lập mắng té tát vào mặt:
-Anh này làm bằng tức là động viên cho Ngụy lên tinh thần chống phá
chúng tôi, tội này là chiến tranh tâm lý nặng gấp trăm lần so với
các anh cầm súng. Còn anh kia bảo mình là bác sỹ, là không có nợ máu
với nhân dân? Tội chữa trị cho quân Ngụy mau lành bệnh và tiếp tục
cầm súng chống lại cách mạng là to lắm đấy
Thế là cả hai xám xanh mặt mũi vì sợ. Cũng có lắm trường hợp đoạn
trường không kém, đó là Trần văn Hồng, Hồng ra đi trong chiếc xe bảo
táp cùng với thành phần thứ dử như: Phùng văn Thốc, đại đội trưởng
62 Dù, Thọ già, Lôi Hổ,Bùi văn Lực, Sở Liên Lạc ..v..v..Hồng bị liệt
vào thành phần ác ôn bởi vì quá thật thà. Anh khai là thiếu uý An
Ninh Thiết Lộ, hai chử An Ninh nghe phát ớn thế mà khai trong bản
thu hoạch mới chết người. Tại sao không khai bảo vệ xe lửa hoặc gì
gì đó mà cứ là An Ninh. Người thứ hai là Nguyển Văn Hiệp, hạ sỹ
thiết giáp, anh học tập chung với những sỹ quan cấp uý. Không một ai
biết về sự oái oăm này, mãi sáu tháng sau trong bài thu hoạch cuối
cùng anh mới khai ra lý lịch của mình. Chúng tôi sững sờ vì sự việc
động trời này. Hiệp mếu máo phân trần:
-Trước kia, em mang lon thiếu uý để cua bà xã, ngày giải phóng mấy
con mẹ nằm vùng hăm he quá nên em sợ, hơn nữa bà xã khuyên đi học
cải tạo, học mươi ngày rồi về và qua 6 tháng không thấy gì nên đành
khai thật với cán bộ
Nhưng với cộng sản thì với quan niệm thà giết lầm hơn bỏ sót, họ
nghi ngờ anh ta là CIA nên không tin những gì anh Hiệp nói cứ nằm ấp
trước đã. Bên cạnh những người được xét tha thì bạn bè tôi cũng tự
mình xét tha mà chẳng thèm nhờ đến chính sách khoan hồng của bọn
cộng sản. Đó là Lê hữu Phúc, con rể của đại tá Công, Quân Đoàn 3,
anh vượt trại vào nửa khuya cùng với Nguyển Bá Trác. Cả hai tự tìm
con đường riêng cho mình, vì họ biết sự man trá của Cộng sản...15
năm sau, cháu Lê hửu hạnh Phúc Khánh Như, con của anh Lê Hửu Phúc đã
nói
-Ba con mất tích từ năm 1975 và đến giờ má con củng không biết ông ở
đâu? Sống hay chết?
Đó là một trong nhiều trường hợp tự xét tha cho mình mà chẳng cần
nhờ đến lòng khoan dung giả trá của bọn cách mạng, tôi sẽ kể phần kế
tiếp..
Thành Ông Năm, Hốc môn năm 1976-1977
Liên trại 3 giải tán, chúng tôi được đưa về Thành Ông Năm, Hốc Môn
đây là bộ chỉ huy của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo trước năm 1975.
T2 là nơi thứ nhì trong sáu trại học tập mà tôi đã qua. Theo tổ chức
của trại, mổi T tương đương một tiểu đoàn, ngoài cùng là T3, T2, T5,
đối diện T5 là T4 và trong cùng là T6. T2 là T hắc ám nhất trong 6T
và tôi sống chỉ duy nhất một năm trời ở đây nhưng cũng có nhiều kỹ
niệm về nó.
Kỹ niệm thứ nhất là gặp nhà điêu khắc lừng danh Nguyển Thanh Thu,
anh đến T2 sau vụ nổ kinh hoàng ở trại Long Giao. Dáng người thấp,
đậm người anh Thu có vẻ là một lực sỹ hơn là nhà điêu khắc và cái
cảm nhận đầu tiên về con người lừng danh này thật khó tả. Cái áo
ngắn tay được may vụng về bằng vải bao cát, mái tóc quăn tài tử nom
anh khôi hài và tàn tạ. Trong ý nghỉ của tôi thì anh Thu phải là
ngoại hạng vì bức tượng Thương Tiếc đã làm bọn lính chúng tôi choáng
ngộp về tài năng ấy. Tôi lần mò làm quen khởi đầu hỏi về hội hoạ,
điêu khắc và anh sốt sắng trả lời rành mạch, thế là chúng tôi thân
nhau và tôi được anh Thu cho xem quyển phác thảo của mình. Trời ạ!
Toàn là hình mấy cô gái không hà. Đa số là hở ngực với suối tóc hờ
hững ngang vai, nét vẻ thật tài tình và màu phấn tiên đậm lợt làm
cho thằng tôi muốn chết vì nhớ thèm. Thanh của nghệ thuật và tục của
lòng người xem. Với anh Thu thì hội hoạ là sự đam mê là nghệ thuật,
là thanh cao nhưng với lũ phàm phu tục tử như quản giáo Hai Thơ là
hủ hoá là bậy bạ. Và một khi ăng ten báo lên thì nạn nhân là nhà
điêu khắc tài ba này. Chúng xé tan xé nát bản phác thảo chà đạp lên
trên đó với sự gớm ghiếc. Anh đi giữa 2 tên vệ binh đầu cuối xuống
với vẻ cam chịu, tôi muốn rớt nước mắt vì hình ảnh đó. Bức tượng
Thương Tiếc đã đưa anh đến đỉnh vinh quang nghệ thuật thế mà bây giờ
là một tội đồ vì vẻ hình bậy bạ..Anh Thu vì quá tin vào đồng đội của
mình, ngây thơ trước tên ăng ten mà mang phô bày những hình ảnh đó,
nếu anh khôn khéo và giữ mình thì chắc không có chuyện. Câu chuyện
chưa dừng lại đây, tên đồ tể Hai Thơ đày đọa anh bằng cách tống vào
Conex. Một cái thùng sắt được đặt trên con lộ nhựa đá, bít bùng và
ngộp thở đã vậy với cái nắng của buổi trưa hè gay gắt thì cảm giác
của người bị nhốt trong đó khủng khiếp như thế nào. Sau này vào
khoảng 1979 anh Thu lại vào Conex lần thứ hai, lần này nặng hơn vì
lén gởi quyển hồi ký qua người bạn được xét tha, trong quyển hồi ký
anh đã nói về sự tàn bạo của cộng sản với người tù..
Chính thời điểm này tôi bắt đầu tin vào sự huyền hoặc của môn tử vi
và anh Nử là người hướng dẩn và giúp tôi tìm hiểu về nó. Học đặc
tính sao, an sao trong lòng bàn tay, luận đoán một lá số, anh Thâu
thì dạy xem chỉ tay và bác Hoàng về tướng mệnh...Đang học ngon lành
thì có tin chuyển trại, trước ngày đi một hôm anh Nử bấm tay và
trịnh trọng nói
-Chú mày đi về hướng Tây, cực khổ và tăm tối nhưng không ở đó lâu.
Ráng mà giử mình
Cà Tum, Tây Ninh T4 năm 1977-1978
Tôi về hướng Tây như anh Nử tiên đoán, đó là trại Cà Tum không xa
biên giới Kampuchia, khoảng 3 cây số đường chim bay, hình như có tất
cả là 6 trại từ T1 cho đến T6. Chúng tôi về T4, lại một T hắc ám,
duy nhất có 3 anh em về khối 2. Đó là Huỳnh Kế Hiếu KQ, Nguyển Ngọc
Lâm ND và tôi TQLC. Tên tổ trưởng Nhơn, trung uý Hải Quân đón chúng
tôi ngay cửa với thái độ trịch thượng và kẻ cả. Cái nhìn đầu tiên về
tên này làm tôi không vui trong bụng: Mắt trắng môi thâm xì mà bác
Hoàng vẫn thường nói là hạng giảo hoạt và bất lương. Và điều này đã
chứng thực, ngay trong buổi họp tổ đầu tiên, tên Nhơn đã đập bàn
quát tháo với Hiếu
-Đây là buổi họp tổ chớ không phải là cái chợ. Anh câm miệng
Tôi không ngờ một đơn vị nổi tiếng hào hoa phong nhả như Hải Quân
lại sản xuất một tên đầu đường xó chợ như vậy..Huỳnh Kế Hiếu tím mặt
và tôi củng thế, nếu có dịp chúng tôi sẽ dạy cho tên mất dạy này một
bài học. Có thể nói những anh em này đã bị đưa lên đây ngay từ năm
1975, với sự đày đoạ cùng với cuộc sống thiếu thốn và mù tịt về
thông tin cho nên con đường duy nhất là phấn đấu và phấn đấu để
thành người tốt, nhất là các cấp trưởng. Họ tận tụy phục vụ cho bọn
cán bộ quản giáo như con chó trung thành mà quên đi mình đã từng là
sỹ quan trong QLVNCH. Tên khối trưởng Thượng khi được xét tha và về
T5 nằm chờ làm thủ tục giấy tờ thì các anh em nơi đây đã ra tay:
-Đ.. Mẹ nghe nói mày là Hùm Xám ở Cà Tum? Sỹ quan hèn như mày thì
phải đánh một trận cho nhớ đời
Một cái mền trùm kín mặt mũi tên Thượng và trận đòn hội chợ tới tấp
giáng xuống không thương tiếc. Đó là cái giá phải trả cho việc làm
của mình, những con chó săn cộng sản...
Về khối 4, T4 tôi và hai anh bạn Hiếu, Lâm đi lao động như bao người
khác. Làm theo chỉ tiêu giao khoán và sẽ có tổ nghiệm thu tại trại.
Nhiệm vụ của tôi là vào rừng chặt le, mổi cây dài đúng một thước, Le
phải già và đường kính tròm trèm trên 20 mm. Chỉ tiêu là 20 cây,
ngày đầu tiên đi cùng với người cũ để được hướng dẩn. Vào rừng le
mới thấy cái nguy hiểm và gian khổ của nó, dày đặc và mọc san sát
không thấy ánh mặt trời, với chỉ tiêu nặng như thế phải tìm kiếm
quan sát tứ phía, mổi chổ một cây sau đó gom lại thành bó. Bò dưới
những thân le oằn sát đất, lê lết trên mặt đất, hoặc len vào bụi để
chặt cây vừa ý. Đôi lúc hạ xong một cây thì lại vướng dây leo, hoặc
sau khi thu gom thì lạc mất lối ra cứ loanh quanh trong rừng le tối
om. Khi vào phải định hướng mặt trời, và lâu lâu hú to để báo hiệu
cho bạn bè biết rằng mình đang trong rừng le . Vác một bó le 20 cây
trên vai với đoạn đường gần 3 cây số thì người tù đổ không biết mồ
hôi, nhục nhằn....
Sống 3 tháng thì chứng kiến cái chết đầu tiên của bạn tù, một cái
chết lãng nhách và kỳ cục..Anh Thành, trung uý hải quân cùng hai
người bạn leo lên nhà bếp để lợp mái, không cao lắm non độ 3 thước,
nhưng mối lạt của đòn ngang tuột ra. Cả ba rơi xuống đất, Thành chết
tại chổ còn hai người kia chỉ xây sát tay chân xoàng. Nguyên nhân
cái chết là gãy cổ. Là đai đen Nhu đạo, Thành uốn lưng theo phản ứng
tự nhiên của con nhà vỏ khi rơi xuống , nhưng định mệnh bắt anh nằm
xuống mãi mãi ở vùng đất Cà Tum này. Vài hôm sau anh Nguyên, bạn
thân của Thành đưa cho tôi quyển vở học trò và bùi ngùi nói:
-Trước khi chết vài ngày, bạn gái của Thành có lên thăm nuôi, từ giã
lần cuối cùng để rồi chia tay vỉnh viển, cô ta không thể chờ đợi
được mối tình vô vọng
Thành sơ ý hay vì mối tình dang dở mà tự hủy hoại đời mình? Tôi
không biết nhưng chắc chắn là anh chết năm 27 tuổi, chết đúng vào
đầu đại hạn 10 năm 25-35. Tại sao tôi biết và khẵng định như vậy.
Quyển vở học trò mà Nguyên trao lại có lá số của Thành cùng với lời
luận đoán trọn đời. Năm 27 bỏ trống hoàn toàn. Té ra Thành cũng
nghiên cứu tử vi như tôi và người nào đó âm thầm truyền lại môn
huyền bí này cho anh. Từ cách an sao, Luận cách và câu phú nhưng
hoàn toàn theo trường phái Đông A di sự. Người sư phụ biết trước
những gì sẽ xãy ra cho đệ tử của mình nhưng không thể làm khác.
Quyển vở theo tôi suốt mấy năm trời và cuối cùng bị tịch thu ở Z30D,
Hàm Tân...
Sau cái chết của Thành tôi lại chứng kiến cái chết của Huỳnh Hồng
Quang, cấp bậc đại uý. Quang trốn trại và bị bắt bởi bộ đội biên
phòng ngay tại biên giới Kampuchia, anh bị áp giải trở lại trại. Bọn
vệ binh, quản giáo hành hạ tra tấn liên tục, hàng đêm tiếng rú đau
đớn của Quang bởi bị đánh đập vang lên lồng lộng
Và anh chết trong nổi khủng khiếp của đọa đày. Bọn cầm thú nhốt anh
Quang dưới hầm tối nhưng cái ghê rợn nhất là cùm tréo, bạn hình dung
ra lối cùm này bao giờ chưa? Hai tay xỏ vào tấm ván khoét sẳn hai
chân cũng vậy như ở tư thế ngược lại, nghĩa là xương sống bị vặn đi
một góc độ nào đó, anh chết vì đau đớn, kiệt lực và bởi lũ kiến đen.
Phải, lủ kiến đánh hơi mùi máu nên bò xuống, chúng rúc vào các vết
thương cắn xé...Hôm đó tôi và Hiếu được lệnh ở nhà làm công tác
khác: Chôn anh Quang. Toán có 4 người, một công tác đau lòng là chôn
bạn tù..Anh Quang nhẹ tênh không còn bao nhiêu xương thịt, quần áo
rách rưới và đầy máu, khi đặt anh trên bãi cỏ, lủ kiến đen từ trong
người anh bò ra. Hiếu lấy chân dí mạnh xuống với nổi tức giận tột
cùng:
-Đ...Mẹ..Tao giết chúng mày. Đồ chó đẻ
Khi đưa Quang xuống huyệt, Hiếu nhìn mãi xuống dưới, ánh mắt uất hận
và anh vượt trại năm 1978 và người nhà không bao giờ nhìn thấy đứa
con của mình. Cái chết của anh Quang đã đưa đến quyết định trốn trại
của bạn tôi sau này
Tiếng súng AK vang lên từng hồi nghe rất rõ, chúng tôi hoang mang và
bắt đầu sợ hải. Một Mậu Thân thứ hai chăng? Bọn chúng sẽ đập đầu
chúng tôi bằng cán cuốc, hay xả súng giết hàng loạt, bởi vì quanh
trại được bao bọc bằng hàng rào tre và có hào sâu bên dưới. Nhưng
may mắn không có việc tàn sát mà lại có đoàn xe Molotova chờ sẳn bên
ngoài. Chuyển trại và xét tha, ai có thân nhân cách mạng sẽ ra về,
còn ai trọc đầu thì tiếp tục đoạn đường chông gai trước mặt. Đi mà
không biết có ngày về!
Long Giao, nơi tạm dừng
Chúng tôi đến Long Giao vào xế chiều và tạm thời ở đây để giúp bọn
bộ đội thu hoạch vụ lúa mùa. Long Giao hoang tàn vắng vẻ chỉ duy
nhất có chúng tôi, người tù từ Cà Tum chuyển đến, ngoài gặt lúa,
phơi lúa tôi cùng các bạn đi vào tận chân núi chặt tre rừng, hoặc
thu hoạch khoai lang...Tôi có những ngày thảnh thơi ở đây, Hiếu cùng
tôi ngồi dưới tấm bạt múc từng muổng bắp giống cứng như đá đưa vào
miệng, vừa nhìn quanh để đề phòng cặp mắt cú vọ của tên quản giáo,
hắn muốn lúc nào cũng có người trên sân phơi.
Và với tên Nhơn, tổ trưởng cà chớn ngày nào lại gặp nhau.. Chiều hôm
ấy, tôi, Hiếu và Lâm theo tên Nhơn ra giếng. Giếng ở Long Giao thì
khỏi nói, sâu thăm thẳm không nhìn thấy đáy, chúng tôi đứng quanh
tên Nhơn, cạnh đấy cũng có vài người đang tắm. Hiếu lên tiếng liền:
-Ê, tổ trưởng Nhơn. Mình tính chuyện phải trái với nhau đi. Cà Tum
là nơi mày làm vua làm chúa để kiếm điểm. Nhưng về chưa? Hay vẫn
tiếp tục như tụi tao?
Nói xong Hiếu xông vào ghì chặt lấy tên cà chớn, tôi và Lâm giạt ra,
mắt lườm lườm nhìn các bạn tù khác như canh chừng sự can thiệp của
họ
-Tao ném mày xuống giếng.. Đ. Mẹ.. Hải Quân không có loại người như
mày. Đồ chó chết
Khỏi nói sự kinh hoàng của tên Nhơn, hắn mếu máo van xin rối rít.
Chúng tôi không sợ bọn bộ đội vì trại bao bọc bởi hàng rào kẽm gai
và dây leo chằng chịt và trời đã tối. Các người khác lặng thinh
không ai lên tiếng. Mãi lâu có người khuyên:
-Thôi mấy anh tha cho nó đi, dù sao mình cũng là tù với nhau. Hắn có
chết cũng chẵng ai quan tâm nhưng còn vợ con ở nhà..Dằn mặt một lần
là đủ rồi
Một trận đòn giáng xuống tới tấp, Hiếu vừa đá vừa hậm hực quát:
-Nhớ nghe con, nhớ trận đòn này mà sáng mắt ra và nhớ đời
Chúng tôi ở tròn 3 tháng thì dời trại
Thành ông Năm, Hốc Môn 1978-1979
Chúng tôi trở lại Hốc Môn nhưng ở T3, một T nhàn hạ nhất trong các
T..Tôi phân về Đội 2 dãy nhà ngang nằm giữa đội 1 và 4, kế con đường
đất và tấm sắt dầy bắt ngang con mương nhỏ. Căn nhà với mái tôn và
chổ ngũ là những tấm thép dầy, không ai dám đặt lưng lên trên đó vào
buổi trưa vì nóng quá, thường thì ra ngoài căn nhà nhỏ sát bên để
tán dóc. Căn nhà được dùng làm nơi hớt tóc cho toàn trại và nơi mà
mọi tin tức trao đổi.. Thành Ông Năm chả có việc gì làm, sáng sáng
thì ngồi tán gẩu kể lại thời chinh chiến. Tôi quen với anh Của, đại
uý phuc vụ Liên Đoàn 5 CB, đại uý Long, phi công C130 và các bạn
mới: Tạ văn Muôn, thiếu uý Điạ Phương Quân và đại uý dược sỹ Anh,
phòng quân dược sư đoàn Dù..Dược sỹ Anh ốm cao người Bắc vẫn thường
chơi bóng chuyền với tôi và Muôn. Chơi cá độ bằng nồi chè đậu xanh ,
có lần tôi và dược sỹ Anh leo rào qua T2 để chơi bóng chuyền cá độ
cho bầu Lễ sau đó bị bộ đội rượt đuổi, may mắn là không bị tóm
cổ..Dược sỹ Anh trốn trại ở Bù Gia Mập và chết cùng một số anh em
khác mà tôi sẽ kể tới.. Trận chiến với bọn Khme đỏ ở biên giới đã
dậy lên phong trào trốn trại ngày càng đông, trong đó có Nguyển
Thanh Vân phi công A37 và định cư ở Anh Quốc sau đó, Huỳnh Kế Hiếu
không quân đi trong dịp này. Hiếu trốn trại với sự tính toán mà ai
ngờ đến, anh đi thẳng vào trại gia binh của bộ đội và từ đây thong
thả ra ngoài sau khi bước qua bờ hào nhỏ. Chính vì trốn trại ngày
càng nhiều mà bọn cán bộ tăng cường lính gát và bắt chúng tôi vét
hào sâu hơn nữa, nghĩa là muốn vượt trại phải qua cái hào rộng và
sâu sau đó bò lên bờ thành cao vút, qua lớp hàng rào kẽm gai. Và nơi
đây là cái chết của anh Phan Quang Kiếm. Kiếm phục vụ ở đơn vị Biệt
Cách hay phòng 7 TTM mà tôi không rõ vì khác đội.....Hôm đó trời mưa
lớn, mưa ngay từ chiều, chúng tôi đang ngũ say thì một loạt súng nổ
từ phía lò rèn, ngay sát đội 2 sau đó là có tiếng chân chạy qua cái
cầu sắt, không phải là 1 mà là 3 người. Nói tóm tắt là có người trốn
trại và nội vụ đổ bể. Không đầy 5 phút sau tên quản giáo Hai Vẹo với
cây đèn pin sáng loáng và cùng mấy vệ binh đi vào nơi chúng tôi trú
ngụ. Hắn soi từng người một và quan sát các đôi dép, những ai có đôi
dép ướt, có bùn là bị áp tải lên trên khung. Thật ra họ chỉ oan uổng
thôi, đi tiểu bên ngoài vào đúng thời điểm trốn trại..Ăn báng súng,
nhốt Conex chỉ cái tội vu vơ là đôi dép bị ướt. Tôi biết chắc toán
trốn trại ở đội 4, thật xa chổ vượt trại. Sáng hôm sau chúng tôi
được lệnh mang Kiếm đi chôn. Anh nằm ngữa trong hào đầy nước, ngực
bắn nát bét, mắt còn mở trừng trừng như không tin là mình lại chết.
Cho đến giờ này tôi vẫn không hiểu tại sao toán của Kiếm laị chọn
nơi đây làm lộ trình, bởi vì từ mấy ngày qua đội của tôi đã vét sâu
con hào, mở rộng bờ mương và bọn cán bộ đã tăng cường vọng gát, bắt
thêm đèn...Một kế hoạch vội vã, hay là chưa nắm vửng tình hình mà
đến nổi. May mắn chỉ một mình Kiếm chết nếu bọn gát không nóng vội
thì có lẽ không còn một ai sống sót để trở về.
Bù Gia Mập năm 1979-1980
Thời điểm này, Thành Ông Năm giải tán, tất cả các T dồn về T6 để
chuẩn bị ra đi, cũng như thường lệ luôn luôn có kẽ may mắn và người
bất hạnh. Tôi thuộc nhóm thứ hai bởi vì biết mình không có ai hoạt
động bên kia và đã phục vụ trong đơn vị thứ dử. Đoàn xe chở chúng
tôi đến vùng lạ hoắc và nổi tiếng từ thời chiến tranh: Bù Gia
Mập...Từ ngã ba Minh Hưng nếu đi thẳng sẽ lên Quãng Đức, rẽ trái
theo con lộ 10 sẽ về Bù Đăng, Bù Đốp và từ nơi này lại có ngã ba thứ
hai. Đi Ban mê Thuộc nếu sang phải, về Phước Bình( Phước Long, Bình
Long) nếu rẽ trái. Nơi chúng tôi đến chính xác là Bù Noi. Bù Noi
cách Minh Hưng khoãng 3 cây số đường đồi, ngoằn ngoèo và trơn trượt,
sau đó rẽ trái là đi về đoàn 316 nơi chúng tôi cải tạo. Khi đến nơi,
lán trại còn đó nhưng hoàn toàn trống lốc không còn ai. Có lẽ những
người trước đã về hay chuyển trại, chỉ duy nhất có 3 người: Anh
Khương, Phi và Lai. Ba anh đã có lệnh xét tha nhưng vì kẹt không có
ai hướng dẩn người mới nên đành phải ở lại. Tôi về khối 2 do anh
Phi, trung uý Pháo binh làm khối trưởng, có lẽ biết mình sắp về nên
anh ta rất dễ chịu trong việc phân công tác, chúng tôi có những ngày
thoải mái tại vùng đất ghê hồn này. Tại sao nói là ghê hồn? Vì Bù
Noi không có đến ngọn cỏ, cành cây để cải thiện, ngoại trừ rừng già
bạt ngàn, cái khũng khiếp nhất là vắt và ve. Đi vào khu lạ thì khỏi
nói , hàng ngàn vắt ngóc đầu ngo ngoe chờ đón, chặt một thân cây
mang ra thì người đầy vắt, lột sạch áo quần ra để bắt và máu tuôn ra
thành dòng từ vết cắn, và một thứ cũng không kém ghê rợn là ve,
giống như ve chó chúng rúc sâu vào da thịt nằm đó để hút máu, chỉ
khi nào nạn nhân nóng sốt và sờ đến chổ nào đau đớn thì y chang là
ve. Biện pháp duy nhất là lấy điếu thuốc lá dí vào, dí cho ve chết
rồi mới bắt ra, vì ve bị nóng sẽ tự động hả hai cái càng và không bị
làm độc, bản thân tôi đã bị ve cắn nhưng không có kinh nghiệm nên
vết cắn thâm đen và chảy nước vàng liên tục, hàng mấy tuần lể mới
hết. Nhiệm vụ của chúng tôi là vun gốc mì và làm các hố phân xanh để
chuẩn bị cho việc trồng cao su sau này.. Chỉ tiêu rất nặng, vun một
luống mì chiều dài 100 mét, vun đúng tiêu chuẩn và do bọn vệ binh
nghiệm thu. Chặt cây cũng thế, đường kính phải từ 25-30cm, dài 2m
trở lên và đi đoạn đường cả năm ba cây số trên đồi dốc trơn trợt
Tuy vất vả nhưng người cải tạo phải thích ứng với hoàn cảnh khó khăn
này, sau khi hoàn tất chỉ tiêu toàn bộ lao vào rừng cải thiện. Như
đã nói trên rừng già Bù Noi không có đến ngọn cỏ cành cây để ăn
ngoại trừ khoai mì. Khoai mì bạt ngàn thế là từng bao cát khoai mì
được ăn cắp mang về đề bồi dưởng sức lực sau một ngày gian khổ. Anh
em phải băng rừng, vượt suối luồn lách để khỏi bị bắt bởi bọn vệ
binh và cái gía phải trã là sốt rét. Sốt rét thường lẫn ác tính luôn
rình rập người tù, dù đã phòng hờ trước bởi những viên ký ninh,
nhưng suốt ngày lặn lội trong rừng thì sớm hay muộn căn bệnh này sẽ
đến thôi.
Trên lộ 10, cứ tảng sáng chúng tôi đi từng tốp với nhau, vừa đi vừa
trò chuyện vui vẽ . Có tiếng huýt sáo của ai đó vang lên, thế là im
bặt. Chúng tôi đang chờ và chiêm ngưởng cái hạnh phúc đến với mình.
Trời ạ! Mấy cô Thượng với cái gùi trên vai đi ngược chiều đến: Bộ
ngực trần no tròn săn chắc, rung rinh theo bước chân. Thật hấp dẩn,
tôi dám cá 100 phần trăm là các cô thành phố không một ai có bộ ngực
như các cô Thượng này, có tiếng trầm trồ khen, chê loạn xạ trong
đoàn người. Trăm con mắt cứ nhắm vào bầu vú mấy cô mà không rời, dỉ
nhiên mấy cô cũng biết điều này nên có vẻ lúng túng, ngượng ngập
Ngắm và thưởng thức các bộ ngực no căng của các cô thôi, chứ mấy bà
già thì chao ôi kinh khủng quá y như quả mướp héo: teo nhách , dài
thoòng .Nhưng chắc chắn một điều là người mấy cô hôi lắm: Một mùi
khét nắng, mùi mồ hôi và mùi đặc trưng của người thiểu số làm chúng
tôi ngán ngẩm dù thiếu vắng đàn bà. Với mấy cô, chúng tôi có chút
cảm tình nhưng với đàn ông thì ghét và thù địch ra mặt. Thậm chí vài
anh em cải tạo hung hăng thách đố:
-Ê... Đồng bào dám bạt co tay đôi với tao không?
Sở dỉ có chuyện như vậy vì bọn Thượng ở đây có khuynh hướng thân
Cộng. Bài hát’’ Tiếng chày trên sóc Bom bo’’ là điển hình. Bom bo
không xa nơi chúng tôi ở khoảng vài cây số đường chim bay và bọn
Thượng cộng nơi đây ghê gớm lắm. Chúng một mình, một súng bương rừng
theo dấu tù cải tạo và hạ sát toàn bộ. Lũ mọi rợ này thích giết
người, giết cho sướng tay chứ không muốn bắt về.
Sở dỉ chúng tôi biết vì toán anh Ngởi, một cầu thủ bóng đá có hạng
cùng với 5 người bạn trốn trại. Không lâu sau tên Sáu Dũng, chính
trị viên tiểu đoàn họp toàn bộ chúng tôi và thông báo: Toán người
trốn trại đã bị du kích sóc Bom bo giết chết tại Bù Đăng, biên giới
Kampuchia, để chứng minh tên này cho mang ra toàn bộ vật dụng của
người chết. Sau toán vượt trại của anh Ngởi, còn có toán của dược sỹ
Anh, phòng quân dược sư đoàn Dù cũng bị bọn du kích nơi đây hạ
sát..Đa số những vụ trốn trại không thành, thường thì chết mất xác
không nghe tin tức hoặc bị giết hại bởi Thượng cộng nhưng có trường
hợp ngoại lệ mà tôi sẽ kể cho bạn nghe. Tên họ của người trốn và kẽ
giúp đở là thật và hiện sống tại Cali....
Lúc đó tôi là khối phó lao động, nhiệm vụ làm các hố phân xanh cho
việc trồng cao su. Mai Huy Ninh, sỹ quan quân lương liên đoàn 33 BĐQ
là tổ trưởng tổ 2, tôi phải đi từng tổ phân phố khu vực và chờ
nghiệm thu. Lúc đó 3 giờ chiều, có lệnh ra về, các tổ báo cáo quân
số và thiếu anh Ninh..Ban đầu mọi người cứ tưởng là anh ta đi lạc
nhưng luận cứ bị bác bỏ vì làm phân xanh đâu cần phải đi xa, xung
quanh khu vực có hàng khối cây cỏ chờ sẳn. Tên vệ binh bắt tôi cùng
hai người khác vào rừng tìm kiếm. Rừng già về chiều vắng teo và đầy
nguy hiểm vì trước đó ban chỉ huy đoàn 316 có thông báo là có con
cọp lớn vừa mới tới khu vực. Chỉ có con dao rừng nhỏ xíu trên tay,
tôi và 2 anh bạn la to tên anh Ninh cho bớt sợ và mục đích cho cọp
né đi nơi đi khác, nhưng hoài công vô ích và cái gía sau đó tôi phải
làm bản kiểm thảo vì cái tội không quản lý tổ viên và mất chức đội
phó. Việc mất chức đội phó không làm tôi buồn mà trái lại, một chức
nhức đầu và mang tiếng với anh em. Không hoàn thành chỉ tiêu thì bị
kiểm điểm và làm đúng thì bị anh em chửi rủa, oán thù...Tôi làm tổ
viên bình thường như các anh em khác và vẫn suy nghỉ về việc Ninh
mất tích. Anh ta thực sự lạc lối trong rừng già hay trốn trại? Và
trước khi về Z30D, Hàm Tân thì câu chuyện hé mở:
Anh Ninh có người anh em họ là bộ đội đang phục vụ tại căn cứ Sóng
Thần, đơn vị tên lửa,cấp bậc đại uý. Chính tên này đã lên tận Bù Noi
chở Ninh về thành phố. Hôm đó sau khi được tôi giao khu vực công
tác, anh Ninh nhờ người tổ phó trông dùm tổ và than thở là bịđau
bụng, là sỹ quan quân lương nhàn hạ và không rành mấy về rừng rú nên
Nguyển Hửu Hạnh, lính sư đoàn 7 BB là bạn thân dẩn đường. Hai người
xuyên rừng ra đến lộ 10, tên bộ đội người nhà chờ sẳn với chiếc Hon
da, Ninh thay áo quần và mặc vào đồ bộ đội với cấp bậc thiếu uý. Anh
Ninh, người Bắc và cùng với mọi giấy tờ giả mạo đã đi thật dễ dàng,
sau đó vượt biên và đến Mỹ. Hạnh cũng đến Mỹ theo diện HO và họ có
gặp nhau sau đó..
Hàm Tân, Z30D, K 2 Năm 1980-1981.
Vào thời điểm này, tù cải tạo được chuyển sang cho Bộ Nội Vụ quản lý
và chúng tôi từ Bù Noi đi về Hàm tân. Đoàn chia làm 2 nhóm người,
phần lớn vê K3 mới thành lập và khoảng 80 người về K2 trong đó có
tôi. Đã từng lao động trong rừng, làm theo chỉ tiêu khoán nên chúng
tôi được phân vào đội lâm sản, lúc đó chỉ duy nhất có đội lâm sản là
20, 21 và khi chúng tôi về K2 thì thêm 2 đội đó là 22 và 23. Anh Huy
đội trưởng đội 23 và tôi đội trưởng đội 22. Xin nói thêm K2 chia làm
3 khu: khu A gồm 3 đội, đó là đội 1, 2 và 3. Các đội này gồm tù hình
sự, chính trị, phãn động lẫn lộn, biệt lập trong hàng rào tre và bị
quản lý nghiêm nhặt trong lao động. Khu B hoàn toàn là sỹ quan từ
đội 4 đến 23 và khu C bỏ trống. Một ban trật tự trại được sự chiếu
cố của bọn công an là ở riêng biệt và có chế độ ưu đải, tôi còn nhớ
rất rõ là: Hừng, biên tập viên đơn vị Phước Long, kế tiếp là Son,
cảnh sát công lộ tùng sự ở Tổng nha, Bùi Xuân Bật dân thứ thiệt Bắc
kỳ 1975 giám đốc công ty nào đó ở Sai Gòn sau ngày giải phóng, dính
vào tham nhũng và vào tù, Hùng không rõ đơn vị chuyên vẻ bích chương
băng ron cho bọn cán bộ và cuối cùng là tên Hùng, trung uý bộ đội,
hắn dính vào vụ buôn bán súng và ăn cướp..
Trong khu K2, cứ mổi căn nhà là có 2 đội, mổi đội một bên và có hai
tầng để ngũ, chổ ngũ là những nẹp tre ghép liền nhau. Đội 22 và 23
sống chung với nhau. Chúng tôi bắt cuộc đời tù tội do bọn Bò vàng
quản lý, mổi buổi sáng toàn bộ ngồi trước sân rộng chờ gọi tên đi
lao động, tên cán bộ trực trại đọc đến đội nào thì đội trưởng báo
cáo quân số và tuần tự đi ra, chúng đếm rất kỹ từng người và về cũng
vậy. Lâm sản có cái tự do là đi lại trong rừng làm theo chỉ tiêu,
còn các đội khác thì bị quản lý chặt chẻ nhất là khi đi tiểu
tiện..Khi bị đề cử làm đội trưởng tôi đã có sự chuẩn bị cho mình và
cho các bạn khác. Tôi sợ nhất là ăng ten, chẳng thà cực khổ, thiếu
thốn còn hơn nơm nớp lo sợ bởi những báo cáo. Chính vì vậy tôi chọn
người của mình, chọn những ai tín cẩn và không có ý phản thùng anh
em
Nguyển Anh Hào, trung uý Hải Quân làm đội phó, biết nhau từ năm 1976
ở T2 Hốc Môn, kế đó là Đặng tiến Phúc sư đoàn 18 sống chung từ 1975
ở Phú Lợi làm thư ký, đội phó dụng cụ là Dương Văn Nhâm, cựu thiếu
sinh quân, thiết giáp. Có người quen xung quanh rồi, tôi tính đến
các tổ trưởng, chọn trẻ, xông xáo và nhiệt tình đó là: Mỹ tổ 1, Cậy
tổ 2, Hoàng tổ3, và Hội tổ 4 sở dỉ tôi không chọn mấy anh già vì họ
dễ thay đổi lập trường và hay lèng èng khi được phân công tác. Cuối
cùng có 3 chức làm tôi nhức đầu trong suy nghỉ và cũng từ sự chọn
lựa này mà làm tôi khốn đốn sau này, suýt vào cùm.
Có 3 nhiệm vụ béo bở mà ai cũng thèm muốn là trực vệ sinh đội và lo
nước nôi cho anh em khi lao động bên ngoài. Đứng trên tình người,
tình chiến hửu tôi không thể bỏ rơi Đinh văn Đáng, ho lao thời kỳ 2,
chọn anh vào nhiệm vụ trực vệ sinh đội, nhẹ nhàng và có thời gian
cho anh nghĩ ngơi, bên cạnh có Lê Tự Hưng khỏe hơn giúp đở và ngoài
bãi thì có Trần Văn Nhã, anh bị bại 2 chân vì thiếu dinh dưởng và
không ai thăm nuôi trong suốt những năm học tập. Sự chọn lựa này tên
Đinh Văn Mùi hậm hực và nảy sinh ra việc chống đối ngấm ngầm và đi
đêm với bọn chấp pháp trại....Phụ trách đội 22 của tôi là quản giáo
Sự, người gốc Thanh Hoá, anh rất tốt và không bao giờ có thái độ khó
khăn, hống hách với người tù. Mổi khi ra nơi lao động thì Sự chui
vào bóng mát ngồi nghỉ sau đó cho gọi tôi hay Hào vào trò chuyện,
còn bên ngoài mặc sức anh em làm gì thì làm miển cuối ngày công tác
sao cho hoàn thành.. Quản giáo Sự thường tâm sự:
-Tôi vào nghành công an đâu phải là về đây, trông coi người tù là
chuyện tôi không bao giờ thích, nom bất nhân và ác nghiệt quá. Nhưng
lỡ rồi...Anh thở dài
Và tên Mùi bắt đầu hành động, hắn lên thẳng bọn trực trại báo toàn
bộ sự việc và tôi là cái đích nhắm vào. Kết quả cán bộ Sự điều đi
nơi khác, tôi bị kiểm điểm vì thiếu trách nhiệm, lơ là trong nhiệm
vụ làm đội trưởng và cái ưu ái mà bọn cán bộ dành cho tên Mùi là
được đưa vào đội ẩm thực, chuyên nấu nướng. Tên quản giáo mới tên
Hồng, được tuyển từ vệ binh sang. Tên này cao to như lực sỹ và bạn
tù củ mệnh danh là ‘’ Mít tờ Bo’’. Hắn đánh tù đẹp như phim, nghe
nói khi còn làm vệ binh không biết anh tù phạm lổi lầm gì đó, thế là
3 tên vệ binh đứng 3 góc, nạn nhân bị đánh từ góc này văng sang góc
khác mà tên Hồng là kẽ đánh nặng tay và hăng nhất... Đoán biết tình
hình như vậy tôi chuẩn bị tinh thần và ngấm ngầm thông báo cho các
tổ trưởng nên giữ mình. Tên Hồng không ưa tôi ra mặt bằng cách giao
chỉ tiêu thật nặng, dỉ nhiên anh em trong đội chao đao với hắn. Tôi
sắp bị làm kiểm điểm lần thứ hai thì được ra về. Đợt xét tha có tất
cả 213 người, đa số là đội trưởng và tôi có trong danh sách thứ 212.
Hú Hồn!
Khi tôi rời đội để đến trại mới chờ làm thủ tục ra về thì gặp Hào,
anh lên nắm Đội Trưởng đội 22. Tôi rất mừng vì với con người như
Hào, đội 22 tương đối nhẹ nhõm hơn, việc đầu tiên tôi hỏi về Đáng,
người bạn đáng thương này thì Hào nói với vẽ bùi ngùi:
-Đáng bị đưa sang khu A, một khu dành cho những anh em ho lao nặng
Trái tim tôi chùng xuống, Đáng khó mà trụ được cho đến ngày về, vì
những ngày cuối cùng khi còn làm đội trưởng tôi nhìn thấy anh ho ra
máu. Viết lại hồi ký này, tôi mường tượng đến khuôn mặt của Đáng,
giọng Bắc êm và nhỏ nhẹ, nếu còn sống cho tôi gởi đến anh với tất cả
lòng thương mến, còn chẵng may Đáng đã ra đi thì xin nhận lời cầu
nguyện chân thành của tôi.....Sau đó toàn bộ được xét tha ra về
không còn lại một ai trừ Mai Nghĩa, tôi không hiểu tại sao lại có sự
trớ trêu như thế.
Trong suốt 6 năm tù, tôi chỉ gặp một số anh em trong binh chủng, năm
1975 gặp Phúc kiếng, đại đội Thủy Xa và Long biệt danh Long ghẽ, Tác
chiến điện tử.. Phúc theo tôi gần 4 năm học tập, anh rất dể thương
lúc nào cũng kính trọng tôi và xưng hô huynh trưởng, đàn em.. Năm
1977 gặp đại uý Lê ngọc Tấn, hậu cứ tiểu đoàn 5 TQLC và cuối cùng
những ngày ở Z30D tôi có buổi họp mặt bỏ túi nhưng rất đậm đà tình
chiến hửu. Đinh thế Cường, cùng khoá với tôi phục vụ tiểu đoàn 2
Trâu Điên mở buổi tiệc nhỏ gọi là họp mặt người lính TQLC, chẳng có
ai nhiều, duy nhất 4 người là Cường, tôi, Đại uý Lê Đình Đơn từ Bắc
mới chuyển về đang ở khu C và Thành từ khu A nhảy rào sang dự. Với
Thành thì theo lời kể là sỹ quan tiểu đoàn 4 TQLC, trốn học cải tạo
và tham gia đãng phái, bị bắt và đưa vào thành phần phãn động. Tôi
không cần biết lời anh nói đúng hay sai nhưng với hành động dám leo
rào từ khu cấm sang khu B để họp mặt binh chủng đủ chứng tỏ Thành là
người có đãm lược và đầy tình chiến hửu
Thiếu uý trung đội trưởng với 3 năm tác chiến và 6 năm tù thì cái
giá quá đắt. Tôi đã bị mất tất cả thời hoa mộng của tuổi học trò,
mất luôn cái tương lai sáng lạng của tuổi trẻ.Tất cả bởi Cộng sản mà
ra và đến tận bây giờ tôi với họ vẫn là hai giới tuyến phân định rõ
ràng. Tôi khẳng định con người dù già hay trẻ, dù cựu trào hay mới
tập tểnh tham gia thì chúng vẫn là loại người có máu lạnh, không có
tình người..Những ngày ở Bù Noi có nhiều tên bộ đội nghĩa vụ quân
sự, mặt búng ra sữa sinh, ra và lớn tại Sài Gòn nghĩa là đã hít thở
cái không khí tự do, ăn bơ sữa của miền Nam thế nhưng vẫn gọi chúng
tôi là thằng này, thằng kia...Bạn bè tôi có người còn kẽ mất trong
suốt 6 năm trời tù tội, những thiếu uý trẻ không chết trong chết
tranh mà lại chết một cách tức tưởi ở rừng già Cà Tum, Bù gia Mập vì
đói, vì bị đánh đập...Nếu trong chiến tranh, người sỹ quan Thủ Đức
đã cống hiến cho QLVNCH tới 80 phần trăm nhân số, những chuẩn uý mới
toanh, một thứ tiền quân hiệu lực đã rơi rụng như lá rừng sau những
trận đánh và bây giờ nơi tù tội họ tiếp tục ra đi. Miền Nam có bao
nhiêu trại giam? Nếu tính từ Cà Mau ra đến Quãng Trị... Chỉ trong
phạm vi của Quân Khu 3, chỉ còn 3 trại mà tôi chưa đặt chân đến: Đó
là Trại Suối Máu, Trãng Lớn và Tống Lê Chân...Mổi nơi là có mồ chôn
của người lính trẻ. Tôi chôn Huỳnh Hồng Quan ở trãng tranh và chắc
chắn vợ con, người thân của anh sẽ không bao giờ biết đến. Hồn anh
cứ lẩn quẩn mãi ở nơi đó mà không siêu thoát được.
Tôi viết lại những kỹ niệm của mình trong suốt 6 năm học tập và có 2
lần khóc. Lần thứ nhất đón xuân tại trại Phú lợi. Một đoàn lân được
làm bởi dụng cụ sơ sài, ông lân do Tuấn đen phi công F5, Sang phi
công A37 luân phiên thay nhau cầm đầu, ông Địa thì do Phú và Sấm phụ
trách. Đoàn Lân đi từng đội chúc tết, tiếng gõ vào thùng gổ, tiếng
xèng xèng của hai nắp nồi nhôm không mang cái vui xuân mà giống như
lời than thở tiển biệt. Nước mắt tôi trào ra, khóc cho đất nước tiêu
tan, khóc cho đoạn đường không bao giờ đến. Lần thứ hai tại Thành
Ông Năm, T3 năm 1978 cũng vào tết, một buổi trình diển bỏ túi và kín
đáo. Bài hát’’ Vĩnh biệt Sai Gòn ‘’ làm anh em rơi lệ trong đó có
tôi... Người bạn tù ca thật hay , anh hát với cả tấm lòng của mình
với nước mắt tiếc thương cho thành phố yêu dấu. Cho đến bây giờ dù
đã nghe nhiều ca sỹ nổi tiếng trình bày nhưng nhất định vẩn không có
hồn, không diển tả hết cái u uất, nghẹn ngào của người mất nước.
Sáu năm dài với bao kỹ niệm buồn nhiều hơn vui, những cái chết của
bè bạn khó mà phai nhạt trong lòng tôi. Ngày trước các anh đã cầm
súng bảo vệ đất nước, đổ máu cho sự tự do và khi tù tội không một ai
biết đến. Vinh danh ca tụng về cái chết của một Tổng Thống, một
tướng lãnh mà không một ai nhắc đến cái chết tủi nhục của những
người tù. Với tôi thì chỉ duy nhất một điều: Thực sự kính trọng
những ai đã sống trong chốn lao tù của cộng sản, bởi vì họ đứng nhìn
cái chết đang đến từ từ với mình mà không làm gì khác hơn được. Một
cái chết nhanh bởi một phát súng thật dễ dàng, nhưng nhìn cái chết
từ từ đang đến bởi sự hành hạ, đói, bệnh, khủng bố, khinh miệt và
không có ngày về thì....
Nếu ngày trước người lính tử trận thì được phủ kỳ, truy tặng tuyên
dương này nọ. Nay người lính chết trong lao tù thì chỉ duy nhất vài
nắm đất của bạn bè ném xuống lòng huyệt, và không được một ai nhắc
đến 4 chử Vị Quốc Vong Thân..
NGUYỄN VĂN LỄ.
Hỏi ngã
chánh tả tự vị
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngã" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngã
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
Các cấp chỉ huy và đồng đội TQLC
Lạng
Sơn Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
Tango
Đại Tá Nguyễn Thành Trí
Sài Gòn Đại Tá Tôn Thất Soạn
Những Niên Trưởng đáng
kính
Tháng Ba lại về
Nỗi lòng
băn khoăn của lớp người VNCH lưu vong thế hệ thứ nhất
Năm Tị nói
chuyện Rắn
Ngậm ngùi,,,
Tiếc thương...
Chuyện tình buồn
Mình ơi! Em
muốn...
Đây Long
Giao, Suối Máu
Người hùng
TQLC Trần Ba
Poncho
Quân Cán Chính VNCH chết trong trại tù "Cải Tạo"
Bão
Beryl và Đại Hội 2024
Đại Hội 2024:
Những tấm chân tình của Đại Gia Đình TQLC
Người về từ
thành cổ
Đại Hội
TQLC 2024 tại Houston
Houston -
Chuyện bên lề
Thương Phế Binh, Ông
Là Ai?
Lòng biết ơn nhân
ngày Lễ Những Người Cha 2024
Một ngày
không thể quên
Giầy Saut
trong tử địa
Những nhân
chứng sống sót của một thời thảm khốc
Tôi đi khám Bás
Sĩ
Bóng người
hay bụi sương?
Lần đầu nhập
trận
Cố Trung Tá
Nguyễn Văn Nho
Trước sau như
một!
Louisiana 2023 – Rằn
Ri gặp mặt
Môt ban nhạc lạ
đời
Những điều
ít người biết về bài hát "Kỷ vật cho em"
An Dương
Ngược dòng
thời gian
Người lính cuối
cùng
Tìm tự do
Tù cải
tạo…Những nỗi buồn khó phai
Danh sách Quân Dân Chính chết trong tu cải tạo
Đón xuân
này nhớ xuân xưa
"Tù cài
tạo" - Những nỗi vui buồn khó quên
Trở lại Cổ Thành
Những ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Gặp gỡ Chú Long
Hồ
Tango: Ngày này năm
xưa! Ngày này năm nay!
Saigon đã
tròn năm
Ngày về
từ rừng núi Hiệp Đức
Trường
Sơn bỏ lại sau lưng
Cuộc hành trình
Bên kia
bờ sông Thạch Hãn
Chung gòng
định phận
Kỷ niệm cổ thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị 1972
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Cố vấn TQLCHK trao Bronze Star cho NT Đặng Bá Đạt
Nhật Ký Cali:
Ngàn năm mây bay
Quỳ hôn đất thân
yêu
Sau 46
năm nước mắt vẫn còn rơi!
Chuyện mắc dịch
Vui buồn cùng
Cọp Biển
Cái gì
của Cesar … Cái gì của Thương Phế Binh …
Hỏng rồi tiếng
nước tôi !!! Phần 1 -
Phần 2
Bạn tôi,
người y tá tên Ri
Hai bà chị
Trận đánh
tháng 3/75 Quân Khu I
Thu hát cho
người
Sự
nghiệp 4 chữ, lý tưởng 2 chữ
TĐ2/TQLC Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Trung Đoàn Tăng-Thiết
Giáp 202
Tình với Nghĩa
Xuân ở nơi nào?!
Tuổi 70,
Chán mớ đời!
Họ nhà "Cu"
Con sáo bạc
má và người tù
Quân khu IX ơi. Chào mi!
Chuyện về
bức tượng TQLC
Tháng 3, ký ức
về anh
Ngày ra trại
Một buỗi chiều
xuân
Đêm xuân Đà Lạt
Nhánh mai vàng
Phục Hưng Tự