Sinh nhật
Chuyện về nguồn
Quanh thau rượu
Hoàng hôn bên đồi
Nén hương mùa kiếp
nạn
Phục Sinh nhiệm màu
Thương tích
Đã 50 năm
Quê hưong ngàn trùng
Đừng gọi tôi là ân
nhân
Ngày chia tay
Ánh trăng xưa
Ngày đại thọ
Lòng sơn gửi tạm
giữa đất trời
Mông lung
Hòn khô
Đêm ngủ tôi mơ
Cali mùa hạnh ngộ
Nhớ mãi
Vẫn tìm em
Gánh phù vân
Quốc hận
Nhắn lời
Tháng 2! Xuân vẫn
ngát hương đời
Nhớ xuân xưa
Xin em
Cũng đành thôi
Mừng sinh nhật
Phút cuối
Đoản khúc Đà Lạt
Chờ
Hương lòng
Niềm riêng đêm thánh
Nỗi đau thẩm
Tình tôi lãng mạn....
Tàn thu
Em cao nguyên
Thu từ phương ấy
thu sang
Kỷ nhân hồi
Hoài Thu
Tịch liêu
Tình gửi từ
trên đôi cánh sắt
Trầm tích
Ngồi giữa Eden
nhớ Saigon
Nhớ quá
Tìm nhau
Một khúc hoài
Muộn màng
Bước lưu vong
Tháng 7
Nhìn biển nhớ người
Chuyện một đời người
Rượu đầy làm sao cạn
Bó tay!
Vô thường bóng em
Đón xuân
Nói đi em
Đêm Giáng Sinh xưa
Nhớ em
Cám ơn
Đêm Thu
Hồng Quế
Tháng tám mưa rơi
Lòng vẫn xuân xanh
Ước gì
Nhớ áo xưa
Hạ vàng trong kỷ niệm
Tóc mây
Lửa Việt
Xuân giữa trời đông
Khi muà xuân đến
Bóng xuân
Hẹn một mùa xuân
Lời cho hải đảo
Đừng do dự
Một vòng quay
Một mình trên căn gác
Mùa hoa phượng
Gọi thầm
Thầm lặng
Ngàn năm mãi tình
chung
Đứng vùng lên
Nỗi buồn vong quốc
Ngày rời Đà Nẵng
Câu hỏi
Thứ Ba 01-04-1974.
8H00 – Tiểu Đoàn lại chuẩn bị lên đường
sau một tháng dưỡng quân và bổ sung quân số. Lính lại trở về với
ngăn nắp, trật tự và kỷ luật cố hữu nên mọi thứ đều được thực hiện
gọn gàng và mau chóng về mọi mặt. Thời gian còn lại là chờ đoàn xe
Tiếp Vận đến đón. Vẫn là cảnh quyến luyến của vợ con lính từ trại
gia binh kéo lên đứng đầy trước cổng của hậu cứ. Vẫn là những tiếng
cười hồn nhiên của tuổi trẻ độc thân quanh những câu chuyện kể, xen
kẽ với vài ánh mắt đăm chiêu sau làn khói thuốc. Tuy vậy, mọi người
đều sẵn sàng để “…Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm..." Đi đâu cũng
được vì… ”Lính mà Em!”
10H00- Trời bỗng chuyển mây mưa. Mặt trời trốn biệt tăm sau màu xám
ẩm thấp. Hơi lạnh từ Hải Vân và Trường Sơn đổ xuống, gặp gió từ biển
tràn lên tạo thành những cơn xoáy thốc mịt mù. Lính tuần tự lên xe.
Kiểm điểm quân số lần cuối. Khởi hành. Vợ con lính co ro đứng nhìn
theo đoàn xe hơn 20 chiếc từ từ lăn bánh. Cư dân thôn Phú Lộc cũng
gởi theo người thân, chiến hữu, và bạn bè những ánh mắt thân tình
pha lẫn âu lo khi xe GMC chậm rãi vượt qua phố chợ và khu gia binh
của Liên Đoàn. Đó đây là một vài nụ cười, vài bàn tay giơ cao, khẽ
vẫy từ dưới đường, còn trên xe là tiếng cười đùa, chọc ghẹo của lính
trẻ hồn nhiên và…bất cần đời! Đoàn xe trực chỉ xuôi nam, vừa chạy
qua Miếu Bông thì trời đổ mưa làm nhòa đi cảnh vật hai bên đường.
Mưa suốt chuyến hành trình, không lớn, không nhỏ, nhưng cũng đủ để
mọi người trùm kín poncho để tránh gió và chống lạnh.
13H00. Quảng Ngãi là đây! Xe chầm chậm lướt qua thị xã. Hàng quán
bên đường, nhứt là những quán cà phê, trông cũng bề thế không thua
gì quán xá trong Đà Nẵng. Mưa vẫn còn nặng hạt nên ngọn Thiên Bút
chỉ là một khối mờ bên quốc lộ. Ra khỏi phố, đoàn quân xa thong thả
lăn bánh thẳng vào địa phận quận Mộ Đức, rồi dừng lại khi vừa qua
khỏi núi Điệp.
Mộ Đức của chim mía, mạch nha, cá chuồn, cây thuốc lá và đường tán
thơm lừng không xa lạ gì với Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân chúng tôi,
đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Đoàn I và Quân Khu 1. Từ 1965 tới nay,
Lính Mũ Nâu cứ đến rồi đi. Đánh đấm không biết bao nhiêu lần tại
vùng này, đến độ ai đó đã có câu “ Muốn lên lon thì đi Thạch Trụ…”
để nói đến mức độ nóng bỏng của một địa danh nổi tiếng trong quận.
Lính xuống xe đổ quân hai bên đường. Hành trình 160km tính từ hậu cứ
Phú Lộc- thuộc vùng ngoại ô Đà Nẵng đủ dài để mọi người ngất ngư,
bắt đầu thấy đói và lạnh run vì gió mưa dai dẳng.
Mới vừa nhai vội, nuốt nhanh một ít gạo sấy, thịt hộp, là có lệnh di
chuyển. Mưa vẫn rơi, gió vẫn rít từng cơn. Cả Tiểu Đoàn rời quốc lộ,
di chuyển theo đội hình hành quân trên một con đường nhòe nhoẹt bùn
đất. Lính ghì tay súng, oằn lưng vì ba lô (*) quá tải, trông chẳng
khác gì những bóng lạc đà đang bước chậm. Bốn cây số lầy lội đủ để
làm mỏi những cặp giò chai đá nhứt, nên mọi người thở phào khoan
khoái khi vào đến vùng hành quân; vì trời cũng vừa tạnh mưa và cũng
vì thấp thoáng dọc theo hai dãy nhà của xã Đức Lương, là những chiếc
nón lá và bóng dáng đủ làm Lính tròn xoe mắt. Phần còn lại trong
ngày chỉ là nhận vị trí, rồi chuẩn bị hầm hố qua đêm thì cũng vừa
xong ngày đầu ra quân của Tiểu Đoàn 37 BĐQ sau đúng đúng 4 tuần
“thất nghiệp“.
Chúa nhựt 06-04-1974. 11H00
Đức Lương, một xã ven biển, cũng như
phần đông các nơi khác, vốn là xã xôi đậu, là cái gai khó nhổ của
Chi Khu Mộ Đức. Lính đến, du kích rút vào các thôn làng bỏ hoang từ
lâu. Lính đi, đám chuột nhắt lại bò ra tác quái. Cứ vậy mà người dân
nào còn trung thành với miếng đất cha ông để lại đã phải chịu đựng
và nín thở lặn ngụp giữa hai làn nước. Vì vậy, Tiểu Khu Quảng Ngãi
phải nhờ Biệt Động Quân tăng phái để giúp giải tỏa áp lực địch ở
ngay hướng chính đông của Mộ Đức. Công tác của Tiểu Đoàn 37 BĐQ là
bình định và an dân.
Bình định thì không khó, nhưng dân có an hay không lại là chuyện
khác. Mấy ngày rồi mà dân chúng chưa chịu tích cực phá bỏ những hầm
nổi và các hàng cây, hay lùm, bụi rậm rạp quanh nhà và ngoài bìa
làng. Dân không làm thì Lính xắn tay áo nhào vô. Rốt cuộc, công việc
của Tiểu Đoàn chỉ là tảo thanh và phát quang, để du kích không có
chỗ ẩn núp và len lỏi về thôn xóm.
Thứ Bảy 12-04-1974. 13H00
Đơn vị tiến dần từ hướng nam lên phía
bắc. Mới đó mà đã gần 2 tuần! Thời gian đủ dài để sang bằng những
hầm nổi, rào dậu, lau lách, cây cỏ trong và chung quanh xã. Tầm nhìn
quang đãng hơn, xa hơn. Dân cũng bớt ta thán và nghi kỵ vì vô hình
chung, Lính đã giúp họ sửa sang lại bộ mặt của thôn làng. Nhờ vậy,
đã có những ánh mắt kèm theo nụ cười thân thiện và chuyện trò cũng
trở nên cởi mở hơn so với lúc mới vào vùng. Đã có câu mời chào của
các vị bô lão, cùng những thẹn thùng e ấp của những mái tóc dài, mới
mấy ngày trước còn mang nét nghi ngại gần như bất cộng tác về mọi
mặt.
Từ đó Lính biết thêm nhiều điều thú vị về Đức Lương, đặc biệt là kỹ
thuật trồng cây thuốc lá và cách chăm bón đất thật giản dị nhưng khó
khăn, khổ sở và…khó ngửi, vì phải cần đến phân người! Muốn có thứ
này thì ngày xưa người ta phải đi hàng chục cây số, càn quét các
cánh đồng- cũng là nhà xí lộ thiên trong vùng- để lượm lặt rồi gánh
về bón đất trồng. Nghe kể mà bất chợt nhìn lại Capstan, Ruby “Quân
Tiếp Vụ“, Bastos, Mélia đầu lọc và cả những loại thuốc “sang“ như
President mà cảm thấy ớn lạnh!
Nhưng Lính không dậm chân tại chỗ. Hôm nay chúng tôi lại có lệnh di
chuyển lên vùng cực bắc của xã Đức Lương, vốn là vùng hoạt động công
khai của du kích, với căn cứ địa là những thôn xóm bỏ hoang từ khi
quân đội Mỹ mới đến. Gần một chục năm nhà không, vườn trống nên làng
Văn Bân chỉ còn là những “mụn cám“ trên bản đồ, còn làng Hoài An
cạnh đồi Van Bang đã là một ốc đảo với không đầy một chục nóc gia.
Đại Đội 3/ TĐ37 BĐQ được lệnh đóng quân tại đây và Trung Đội 1 chúng
tôi trở thành tiền đồn trên cao độ 60 mét của Van Bang.
- Sao tên ngọn đồi nghe lạ quá vậy bác Hai?!
- Tui cũng không biết.
Ông lão sống bằng nghề trồng cây thuốc lá và bắt dong (**) ven biển
lắc đầu. Người dân địa phương không biết. Vậy thì chuyên viên in bản
đồ của Nha Địa Dư đã quên bỏ dấu cho hai chữ Van Bang không
chừng!?... Những nhát cuốc bổ xuống đá ong dội vào tay đau điếng làm
chúng tôi lắc đầu, ngao ngán. Nhưng phồng tay, nhức lưng thì cũng
phải lo cho xong hầm hố và tuyến phòng thủ. Vừa xong mọi thứ là đã
chói chang ráng chiều. Màu vàng của nắng, màu nâu của đá ong, màu
cam của dải đồi nhấp nhô chạy mút tầm mắt về phía tây hòa vào màn
xanh mờ mờ của núi Điệp tạo thành một bức tranh lạ mắt của thiên
nhiên.
Lính thay nhau “hạ sơn“ để tắm giặt và cũng để tạt qua làng nhìn
“nẫu“ cho đỡ ghiền. Trong khung cảnh hoàng hôn, đâu là vị trí súng
của pháo binh Mỹ mấy năm trước đây? Đâu là ranh giới của đất lành và
mìn bẫy mà Đại úy Trần Văn Vương đã hết lòng căn dặn phải hết sức
cẩn thận - vì ngay cả Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Văn Gio cũng
đã bị thương vì mìn ngay những ngày đầu tiên - và đâu là vùng đất
chết mà chính đám "vịt con" cũng đã từ lâu không dám đặt bước tới?
Thứ năm 16-04-1974. 18H00
Đồi trọc. Khô khốc. Ngồi chờ trực thăng
tải thương mà buồn ơi muốn khóc! Vùng tử địa với mìn nội hóa đóng
vai tử thần giăng bẫy. Khoảng đất rộng đủ cho cả Đại Đội trấn đóng
chỉ giao phó cho 20 mạng khai quang bằng giày saut và lưỡi lê vì máy
rà mìn Poland của Công Binh hoàn toàn vô hiệu lực. Cả mấy ngày trời
mà vẫn chưa xong một nửa ngọn đồi. Công việc càng chậm càng tốt, kỹ
lưỡng chừng nào chắc ăn chừng nấy. Đơn giản nhưng hồi hộp. Trung đội
dàn hàng ngang, mỗi người cách nhau chừng một sải tay. Lưỡi lê cột
chặt vào một nhánh tre, cắm phập xuống đất, khoảng cách càng khít
khao càng tốt. Xăm tới đâu bước tới đó.
Nhưng rồi đến hôm nay, ngày thứ tư của việc dò mìn, cũng đã không
tránh khỏi thương vong! Một thằng em cuốn poncho, thêm một đứa bay
mất bàn chân khi nhào tới đỡ bạn. Tổng cộng đã tìm được 28 trái mìn
nội hóa sau 4 ngày “chiến đấu với Ma“. Tiếng rên của thằng em càng
làm nhói thêm lồng ngực vì không thể chia sớt được nỗi đau thể xác
của một con người. Nguyễn Hoàng Minh thương bạn và nóng lòng vì bạn
nên mới ra nông nỗi. Thật đáng tiếc! Còn Lê Văn An vì bổn phận và
trách nhiệm của người lính mà phải bỏ lại mạng sống mình trên đồi
máu. Thật đáng buồn!
- ĐM! Tụi nó gài mìn độc quá!
Trung Sĩ I Thái vỗ về đứa em khinh binh rồi trở lại bên tôi bật
tiếng chửi thề. Ông Trung Đội Phó là người đầu tiên gõ đúng vào trái
mìn nội hóa làm bằng lon trái cây, bên trong là thuốc nổ, đinh, vít,
và mọi thứ sắt vụn trên đời. Không biết bộ óc khủng bố nào đã nghĩ
ra được cách vô hiệu hóa máy rà mìn thật tinh vi bằng cách bọc hai
lớp nylon lên mảnh ván đặt nằm gọn trên lon mìn, ngòi kích hỏa là
một cây đinh đóng xuyên qua ván và cắm thẳng vào lon có ngòi nổ là
một vỏ đạn M16. Mọi thứ còn khá tốt nhờ nylon cản nước không làm mục
gỗ hay ướt thuốc. Dẫm chân trệt qua một bên thì có thể không gây
chạm nổ, nhưng đạp ngay trên chiếc đinh thì chỉ có phép lạ mới làm
cho tịt ngòi. Bằng không sẽ bay gót, mất bàn chân nếu là lon nhỏ,
hoặc mất mạng nếu gặp lon cỡ hộp sữa SMA hay lớn hơn!
Khi trực thăng đến tải thương thì mặt trời cũng vừa tắt nắng. Mừng
cho đứa em từ nay xa rời cuộc chơi nhưng cũng buồn rười rượi cho một
hoa niên đã sớm lìa đời. Nhìn theo cánh quạt khuất dần về phía Quảng
Ngãi mà ước thầm được theo về hậu phương an lành. Nhưng Lính không
có thì giờ để tần ngần hay tưởng tiếc, vì còn phải cắm cọc làm dấu
những vị trí đã dò xong các loại mìn. Sau đó là một lô việc phải
làm, bao gồm báo cáo trong ngày, cơm chiều, chỉnh đốn lại tuyến
phòng thủ qua đêm, cắt đặt canh gác... Công việc vừa xong là đã thấy
sao trời lấp lánh. Một ngày lại trôi qua trong đời Lính. Mai này sẽ
ra sao?!
Chúa Nhựt 20-04-1974. 10H00
Khoảng đất dọc theo sườn phía đông của
Van Bang vừa được khai quang hoàn toàn. Hành lang bề ngang chừng hơn
2 mét và chiều dài trên dưới 100, là vị trí khá tốt để quan sát khu
nhà dưới chân đồi, ruộng đồng ngoài bìa làng và cả núi Cây ở phía
bắc. Chỉ chờ có thế! Hôm nay Tiểu Đoàn tung hai Đại Đội để thăm dò
căn cứ địa của đám du kích trong khu vực của ấp Văn Bân. Đại úy Trần
Văn Quy, Tiểu Đoàn Phó trực tiếp chỉ huy. Đại Đội 2 nỗ lực chính,
Đại Đội 3 tiếp ứng.
Cối 81 và 60 ly của Tiểu Đoàn và hai Đại Đội vừa dứt mấy tràng đạn
là Đại Đội 2 của Trung úy Hiền xung phong ngay vào làng từ hướng
đông. Tại hướng Bắc, Trung Đội 1 và 2 do Thiếu úy Lợi, Đại Đội Phó/
ĐĐ3 chỉ huy, đã dàn sẵn để chờ địch. Phía Tây là đồng trống, dành
cho mấy khẩu cối càn quét khi cần. Tiếng súng nổ dòn dã. Vài bóng
người chạy xuyên qua những khoảng sân thưa hay đất trống.
Xa quá không rõ là Mũ Nâu hay du kích. Đại úy Quy vừa theo dõi, vừa
buông, chụp ống liên hợp điều binh liên tục. Lính xung phong, tiếng
thét nghe vang dội. Âm thanh xen kẽ vào tiếng súng ngắn, dài, tạo
thành âm điệu quen thuộc của mặt trận đang sôi động. Bỗng nhiên, xen
lẫn với tiếng nổ dòn của súng nhỏ, là mấy tiếng đùng đùng vang lên
gần như cùng một lúc.
- Chết mẹ! Tụi nó dính mìn rồi!
Đại Úy Quy quay sang tôi than một tiếng rồi đứng lên quát tiếp vào
PRC25, ra lệnh cho Thiếu úy Lợi tiến ngay vào làng, để giải tỏa áp
lực cho Đại Đội 2 và yêu cầu Trung úy Hiền báo cáo tình hình. Sau
một hồi trao đổi, ông Quy ra lệnh cho hai Đại Đội ngưng truy kích và
nằm im tại chỗ. Việc tải thương bắt đầu. Cần phải chạy đua với thời
gian nên con đường ngắn nhứt là leo đồi để lên Van Bang chờ trực
thăng đến bốc.
Mấy họng cối của Tiểu Đoàn và Đại Đội lại khạc đạn vào Văn Bân, làm
hàng rào cản để 2 Đại Đội tuần tự lui binh về phía bắc làng Hoài An,
rồi từ đó phá bụi, lùm, để mở đường leo dốc. Trên đồi, Trung Sĩ I
Trần Văn Thái, Trung Đội Phó của tôi, chọn vài khinh binh tình
nguyện của Trung Đội rồi dẫn họ và lao công đào binh do Tiểu Đoàn
phái lên cùng xâm, dò, phát quang dần xuống để bắt tay với toán tải
thương cũng đang lần, mò từ phía dưới đi lên.
Từng giây phút trôi qua là một nỗi lo nghẹt thở. Nhưng rồi chuyện gì
tới, phải tới! Một tiếng nổ vọng lên từ hướng đang mở lối làm mọi
người thót tim, khô cổ. Tôi cố lần theo dấu chân, bước xuống mỏm đá,
nhoài người nhìn xuống phía dưới, nhưng không thấy gì sau mớ bụi cây
dày đặc. Một lúc sau Trung Sĩ I Thái trồi lên, sau lưng ông là hai
khinh binh của Trung Đội 1. Trên lưng của người đi trước là Lê Văn
Chánh, theo sát phía sau là một đứa em đang xòe tay nâng giữ bàn
chân bê bết máu và lòi cả xương gót của Chánh đang lủng lẳng theo
nhịp bước của đồng đội. Tiếp theo là toán lao công đào binh cùng với
“bánh tét“ và thương binh nặng, nhẹ, nối nhau lần lượt lên đồi. Hai
"nằm", bốn "ngồi", cộng thêm Chánh là bảy tay súng bị loại khỏi vòng
chiến. Trong khi đó thì tổn thất của địch không rõ. Giá đắt thật!
Trung Sĩ I Thái dừng lại bên tôi, nhìn về phía thằng em đang được y
tá băng bó, cố nén sự buồn bực bằng tiếng thở dài:
- Lại thêm một đứa gặp “Ma“. Không tải thương kịp, chắc là nó…
- ĐM! Đã gọi trực thăng rồi! Đại Úy Quy ngắt lời. Sẽ có ngay.
Rồi quay qua tôi, ông nói tiếp:
- Chú mày lo vụ tải thương cho chu đáo nghe. Tao về đi phép vợ đẻ
đây! ĐM! Đánh đấm gì mà chỉ gặp toàn là mìn không hà!
Câu nói của Đại úy Quy cũng là lời than của chúng tôi suốt mấy ngày
nay. Đã vậy, còn có thêm kế hoạch mới của Đại Đội: gấp rút dọn bãi
mìn trên Van Bang để lập đồn dã chiến. Chúng tôi lắc đầu. Lại khổ
nữa rồi! Lính quen lưu động, bây giờ phải nằm tại chỗ gánh một trách
nhiệm mà không ai muốn nhận lãnh. Thì thôi cũng đành. Quân Đội có
những lệnh lạc trời ơi đất hỡi như vậy là chuyện thường. Thi hành
trước! Than thở sau. “Lính mà em!“
Thứ Tư 23-04-1974. 17H00
Chỉ còn một khoảng đất nhỏ là coi như
xong công tác dò mìn. Chiều nay chúng tôi dời vị trí phòng thủ đến
khu vực vừa dọn xong. Một lô mìn nội hóa đủ cỡ, đủ loại, nằm chất
đống bên ngoài tuyến chờ ngày mai thanh toán cả ngọn đồi thì sẽ phá
hủy một lượt. Đùa với tử thần nên phải trả giá bằng mạng người.
’’Đòn bánh tét’’ gói thây đứa em còn nằm đó. Trần Bình xui tận mạng
vì lạc ra ngoài khu vực đã làm dấu, để giải quyết nhu cầu cho ’’đệ
tứ khoái", nên đạp phải mìn banh xác.
Chờ hơn 2 tiếng đồng hồ mà vẫn chưa có trực thăng. Bóng nắng đã
nghiêng dài nhưng vẫn còn đổ lửa. Chúng tôi ngưng dò mìn để đào hố,
căng lều cho kịp buổi tối. Bàn tay phóng dao cả ngày lại phải cầm
xẻng phập đất, nạy đá, nên bây giờ đã sưng phồng, đau rát. Căng xong
poncho, cột xong võng cho ba thầy trò cùng khoanh chung một chỗ là
mỏi nhừ hai tay. Đang cởi giày, tháo vớ cho mát chân thì vài đứa em
tà tà đi ngang qua chỗ tôi ngồi. Một đứa trong bọn họ kéo lê thanh
tre dưới đất, lưỡi lê lòng thòng như muốn sút hẳn ra. Thấy vậy nên
tôi quát gọi tới trình diện ngay kế bên võng.
- ĐM! Lè phè vừa phải thôi nghe!
Vừa chửi thề, tôi vừa quấn dây cột lưỡi
lê lại rồi phóng vài nhát ngay dưới chân. Một tiếng "phụp" khô khan
vang lên làm tôi điếng người. Nhìn đầu lưỡi lê cắm ngay giữa đôi
giày, tôi thấy lạnh xương sống. Gần một tiếng đồng hồ loay hoay tại
chỗ không lẽ Hồ Viết Sành, Nguyễn Ngọc Thanh và tôi không có lần đạp
phải trái mìn này? Nhưng vì sao nó không nổ? Đạp xéo một bên? Hay
thuốc nổ tịt ngòi? Phép lạ chăng?!
Phản ứng đầu tiên là cả đám dạt ra thật nhanh làm cả Trung Đội giựt
mình quay lại nhìn. Còn tôi lạnh cẳng ngồi chết trân một hồi lâu.
Chưa kịp nói thì Tín ”lùn“ đến bên võng gỡ lưỡi lê của mình khỏi
thanh tre, rồi thận trọng gạt từng lớp đất mỏng. Miếng ván có bọc
nylon hiện ra, đã mục nhưng chưa nát. Chẳng bao lâu sau là cả trái
mìn nội hóa được moi lên. Một lon dầu ăn, loại thực phẩm viện trợ!
Cả đêm tôi trằn trọc nghĩ ngợi về trái mìn ngay dưới chân mình. Nếu
nó phát nổ thì cả ba thầy trò, tôi, thằng em ô đô (***) và hiệu
thính viên của Trung Đội, chắc chắn phải có người trùm poncho. Cho
dù bị thương thì cũng sẽ mất máu, hay kiệt sức mà chết vì không có
phương tiện tải thương trong đêm nay.
Chiếc poncho gói xác Trần Bình vẫn còn nằm tại chỗ. Thỉnh thoảng có
người đến đốt thuốc thế nhang, rồi cắm trong chén cơm trắng đặt phía
trên đầu của đứa em vắn số. Nghi thức tiễn biệt của đồng đội chỉ có
thế! Đơn giản mà chí tình. Đọc cho thằng em vài câu kinh, tôi mới
sực nhớ xâu chuỗi còn nằm trong ngực áo. Lại nghĩ tới một phép lạ
nào đó đã cứu cả ba thầy trò chúng tôi không chừng. Tôi thức trắng
cả đêm chỉ để rùng mình nghĩ ngợi và tưởng tượng, rồi rù rì với hai
đứa em quanh những câu chuyện đa số bắt đầu bằng...Nếu như trái mìn
nổ?!!!
Thứ Ba 29-04-1974. 14H00
Rồi cũng dọn xong vùng tử địa trên đồi
Van Bang sau hai tuần đổi bằng máu, mồ hôi, và cả nước mắt của Lính.
Mỗi lần nghe một tiếng nổ, dù là tiếng phá mìn, thì cổ họng như muốn
thắt lại. Tiếng nổ dội vào ngực, xoáy trong đầu, tạo cảm giác rùng
rợn khi âm thanh dội vào vách đá rồi vang rộng khắp đồi. Chết ngay
thì không nói gì, đằng này mìn nội hóa thường giết người dần mòn do
mất máu và đau đớn vì cụt giò, mất bàn chân, hay nát bọng đái.
Ngày lên đồi, quân số Trung Đội chúng tôi là 20 người. Bây giờ vẫn
là 20, nhưng đã có 5 tân binh vừa mới bổ sung hồi sáng. Số lính mới
về được chia đều cho ba Trung Đội vì tổn thất nhân sự gần như ngang
nhau sau cuộc rà mìn bằng chân của chúng tôi hay những lần hành quân
thăm dò của hai Trung Đội còn lại. Đại Đội 3 te tua nhưng vẫn sẽ là
nỗ lực chính trong cuộc hành quân vào ngày mai. Mấy hôm nay địch tha
hồ bắn tỉa khi chúng tôi dựng tre, cắm cột để nối hàng rào, và hằng
đêm, đám du kích hiên ngang đem loa phóng thanh tiến sát chân đồi
”sủa” liên tục. Đã đến lúc phải hành động!
16H00.
Đại úy Vương họp các Trung Đội Trưởng để chính thức thông báo lệnh
của Tiểu Đoàn về việc truy lùng du kích và khai quang toàn bộ khu
vực tây bắc dưới chân đồi. Kế hoạch hành quân lần này hơi khác lần
trước. Chỉ có Đại Đội 3 trực tiếp tham chiến, vì có tin cho biết là
du kích đã rút lực lượng nòng cốt khỏi Văn Bân. Chúng chỉ để lại một
toán nhỏ để tuyên truyền và quấy rối. Đại Đội 4 sẽ đóng vai trò tiếp
ứng và giữ an ninh ngoại vi khi thành phần xung kích của Đại Đội 3
đã vào bên trong làng. Sau khi cho biết tình hình và kế hoạch, ”Bố
Già” đặt thẳng vấn đề:
- Cả ba Trung Đội đều thiệt hại nặng như nhau, nên tôi dành cho quý
vị sự lựa chọn. Ai sẽ đi đầu vào ngày mai? Nếu không ai tình nguyện
thì tôi sẽ cho bốc thăm. Như vậy là công bằng nhất. ”
Ba Trung Đội Trưởng chúng tôi cùng im lặng. Không ai nhìn ai. Căng
thẳng! Vương Vũ tỏ dấu hiệu kiên nhẫn chờ đợi bằng cách mồi thuốc
hút. Nhưng ông chỉ vừa rít hơi khói đầu tiên là đã có câu trả lời.
- Tôi nhận!
Hai tiếng chắc nịch của tôi làm không khí thay đổi ngay lập tức. Ông
Vương gật đầu nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Lê Văn Hữu và Nguyễn Thanh
Vân cùng đến vỗ vai tôi, kèm theo những nụ cười thông cảm và câu nói
của Vân:
- Tối nay hai ông qua chỗ tui nhậu. Kéo mấy ông phó qua luôn nghe.
Về đến tuyến đóng quân thì mọi người đã biết tin tức cuộc họp. Lính
vốn luôn sẵn sàng để chấp nhận mọi hoàn cảnh nên nét lo âu thoáng
hiện trên ánh mắt rồi cũng tan biến theo những cợt đùa cố hữu. Vui
được lúc nào hay lúc đó, nên Lính vẫn hồn nhiên sinh hoạt như trên
đời này không có gì để bận tâm ngoại trừ kiểm tra súng đạn để chuẩn
bị cho cuộc hẹn với Tử Thần vào sáng ngày mai. Xong xuôi mọi thứ là
cũng vừa kịp giờ hẹn với Vân và Hữu. Nắng vẫn còn đẹp dù đã sẫm màu.
Một ngày trong đời lại trôi qua...”Một ngày như mọi ngày” của Lính!
Thứ Tư 30-04-1974. 9H00
Từng đợt cối thi nhau rót vào mục tiêu.
Cuộc hành quân tảo thanh bắt đầu. Lê Văn Hữu cho Trung Đội 2 bám vào
bìa làng phía đông rồi dừng tại đó. Còn tôi dẫn Trung Đội 1 vòng qua
hướng bắc rồi xông thẳng vào. Từ trên đồi, Đại úy Vương thận trọng
điều quân. Ông cho lệnh chúng tôi lục soát từng khu vườn, từng nền
nhà hoang rồi tiến dần qua hướng nam, nghĩa là đi ngược, để về lại
phía đồi Van Bang, còn Trung Đội 2 của Lê Văn Hữu từ cạnh sườn phía
đông chuyển dần qua hướng tây bắc, cắt ngang sau lưng chúng tôi dựa
theo địa thế của khu làng.
Hướng đông, tức phía biển được nhường lại cho Đại Đội 4 dàn quân sẵn
sàng tiếp ứng. Khoảng cách lúc đầu tính bằng những hàng dậu hay
khoảng sân nhờ Đại úy Vương trên đồi còn nhìn thấy chúng tôi di
chuyển, nhưng không bao lâu thì đã bị cây cối che khuất nên thỉnh
thoảng phải dừng lại để xác định vị trí. Không có sự kháng cự nào
của địch. Mới tối hôm qua còn ra rả tiếng loa tuyên truyền nghe đến
ngứa lỗ tai. Bây giờ thì im lặng hoàn toàn. Chúng nó đã rút đi, hay
đang rình rập, giăng bẫy phục kích đâu đó chăng!?
10H00
Làng Văn Bân hoàn toàn bị bỏ hoang đã từ lâu. Nhà cửa chỉ còn lại
nền đất và vườn tược, cây cối không có dấu hiệu được chăm sóc. Nhưng
dấu chân trên đất cát vẫn còn khá rõ mặc dù một số lớn có dấu hiệu
bị xóa đi một cách vội vã. Như vậy, nơi này đúng là căn cứ địa, là
vùng bất khả xâm phạm của du kích bấy lâu nay. Chúng tôi đang lục
soát thêm vài khu vườn thì toán khinh binh đi đầu dừng lại. Trung Sĩ
I Thái trở lại bên tôi và cho biết phía trước có dấu vết của một con
đường mòn hình như đã từ lâu không có người qua lại.
Tôi mở bản đồ, xác định con đường làng một thời nối Đức Lương với
các xã chung quanh, báo cáo với Vương Vũ, rồi dừng tại chỗ chờ Trung
Sĩ Bi dẫn Tiểu Đội khinh binh vượt hàng dậu thưa để tiến dần qua khu
vườn lân cận. Đến khi người cuối cùng là Nguyễn Văn Tâm vừa bước
theo đồng đội thì một tiếng nổ vang lên, hất tung Tâm ”sún” khỏi mặt
đất trong một màn bụi đất dày đặc. Đó là hình ảnh sau cùng tôi nhìn
thấy trước khi bị sức nén, hay có thể là phản xạ của chính mình, đẩy
té xuống đất.
Khi tôi lồm cồm ngồi dậy đã thấy ngay Trung Sĩ I Thái nhìn tôi với
nét mặt lo lắng, còn Thanh ”máy” thì đang lom khom, vừa ngó dáo dác
chung quanh, vừa báo cáo về Đại Đội. Trong khi đó bên cạnh tôi, Hồ
Viết Sành còn nằm dưới đất, chong súng về phía trước.
- Chuẩn úy có sao không?
Trung Sĩ I Thái run giọng hỏi tôi. Trong cơn choáng váng, tôi nhìn
thấy ông đã không còn cầm súng mà ngược lại, bàn tay phải đang nắm
chặt cánh tay trái. Người ông đầy máu. Trên tay tôi cũng dính một
miếng thịt của ai đó không rõ. Có vài vết máu đây đó trên người,
nhưng tôi không có cảm giác đau đớn, chỉ thấy hơi tức ngực. Đến lúc
này, Trung Sĩ I Thái mới bàng hoàng rồi trân trối nhìn lại cánh tay
đẫm máu của mình.
- ĐM! Sao lạnh quá vậy!
Vừa dứt lời nói sảng là ông Thái ngã
xuống ngất xỉu, tay vẫn còn nắm chặt vết thương.Tôi choàng qua, gỡ
bàn tay phải của ông ra, mới biết cánh tay trái chỉ còn nối vào
người bằng một miếng thịt nhỏ bé ở gần vai, ngay dưới nách. Tôi
nghiến răng giựt cánh tay ra rồi đắp vội mảnh băng cá nhân vào vết
thương. Hồ Viết Sành nhào qua đỡ người Trung Đội Phó cho Hạ Sĩ Bé
chích thuốc cầm máu. Giao ông Thái lại cho người y tá, tôi lật đật
ra lệnh cho Trung Sĩ Đặng Tri dàn toán đại liên bên cánh phải, chĩa
súng về hướng bìa làng, đề phòng địch phản kích, sau đó kéo Thanh
”máy” và Hồ Viết Sành chạy lên phía trước.
Toán khinh binh có 10 người thì đã bỏ cuộc hết 5, đang nằm bất động,
hay oằn oại rên siết. Trung Sĩ Bi và một khinh binh đang lăng xăng
lo cho đồng đội kém may mắn, còn mấy người khác thì ngồi ghìm súng
về phía trước. Tôi thảy Hồ Viết Sành vào trám tuyến với khinh binh,
ra lệnh mọi người gấp rút đào hố cá nhân. Trong khi đó Thanh ”máy”
cũng báo cáo tình hình với thẩm quyền Vương Vũ và xin tải thương cấp
tốc.
Tôi trở lại phía sau, xem xét tuyến dàn quân của toán đại liên, chôn
tạm cánh tay của ông Thái trong một hố đào rất cạn, hối hạ sĩ Bé lên
chích thuốc cầm máu và băng bó cho toán khinh binh. Tất cả những gì
tôi làm từ lúc lồm cồm ngồi dậy sau khi bị đẩy bật xuống đất, cho
tới lúc này hoàn toàn là do bản năng. Đầu óc tôi nhẹ tênh, nhưng tôi
biết mình đang run và cách duy nhứt để trấn áp nỗi lo sợ, là lội một
vòng kiểm tra, gằn giọng rít qua kẽ răng để trấn an thương binh vào
bảo họ đừng rên la kẽo địch có thể nắm bắt tình hình và tấn công bất
ngờ.
Có thể nói cả Trung Đội vừa hoang mang, vừa thất thần vì chưa chạm
địch mà đã rụng hết 6 mạng. Nhìn chung quanh mới thấy tình cảnh
chúng tôi thật thê thảm. Chỉ nội lo cho thương binh cũng đã là một
gánh nặng. Mọi người đều phơi nắng. Không ai dám tìm bóng mát vì
bóng mát có thể là tử địa. Đúng ra, nơi nào trong khu làng này cũng
có thể là tử địa. Đâu ai ngờ bỏ lối mòn, phát đường qua hàng dậu mà
đi cũng vướng bẫy. Cái số xui tận mạng đã khiến cho đứa em nhỏ con,
thấp người, vướng chân vào sợi dây bẫy của đầu đạn 155 ly. Hơn một
kí lô thuốc nổ!
- Chuẩn úy ơi! Đừng bỏ em.
Trong cơn mê sảng, Tâm ”sún” mở mắt gọi tôi. Tay bi da số một của
Liên Đoàn 12 BĐQ bây giờ chỉ còn nửa người phía trên. Hai chân đã
biến mất và vùng hạ bộ chỉ còn là một mớ máu thịt bầy nhầy. Tôi nâng
thằng em lên, vừa an ủi, vừa đau lòng, lại vừa...sợ một cách bâng
quơ. Không chịu nỗi cảnh thằng em bê bết máu, tôi cởi áo lót phần hạ
bộ của Tâm, ôm gọn đứa em vào lòng mà có cảm giác như đang ẵm bồng
em bé. Nắng khô khốc lúc giữa trưa của một ngày sắp vào hè nung lửa
thật tàn nhẫn. Giữa mồ hôi và nước mắt, tôi không biết thứ nào chảy
dần xuống má của vài người đang cắm từng nhát xẻng xuống lớp đất cát
khô mịn chung quanh mình.
- Lạnh quá chuẩn úy ơi! Chắc em chết quá!.. ĐM! Thằng Bi đâu rồi...
Nước! Cho miếng nước!...
Những tiếng rên la trong cơn mê sảng của Tâm ”sún” và mấy đứa em vừa
được kéo về chỗ Trung Sĩ I Thái làm tôi thêm đắng cổ. Bỏ Tâm ”sún”
xuống thì không đành lòng, nên tôi ngồi đó ra lệnh cho Thanh ”máy”
hối thúc vụ tải thương, rồi chỉ định Trung Sĩ Đặng Tri, Tiểu Đội
Trưởng tổ đại liên làm phó cho tôi để cùng Trung Sĩ Nguyễn Văn Bi
đôn đốc việc đào hố cá nhân và tổ chức phòng thủ.
Một lúc sau, Lê Văn Hữu gởi một toán của
Trung Đội 2 mang các thanh tre từ phía sau lên, dự trù sẽ khiêng số
thương vong ra phía sau rồi vòng lên đồi theo lối tải thương lần
trước. Nhưng có lệnh của Vương Vũ cho nằm tại chỗ, chờ Trung Đội 3
của Nguyễn Thanh Vân dò mìn để mở đường theo lối mòn đã từng dẫn
thẳng lên đồi lúc xưa. Như vậy chỉ trên 100 mét là thương binh sẽ
đến nơi đáp của trực thăng thay vì gần nửa cây số dằn xóc có thể làm
vong mạng khi phải khiêng cáng đi vòng bìa làng.
Còn đang lo chỉ nơi dựng poncho che nắng cho thương binh thì có
tiếng của Hạ Sĩ Bé.
- Chuẩn úy!... Nó ”đi” rồi.
Tôi nhìn lại mới hay Tâm ‘’sún‘’ đã tắt
thở lúc nào không biết. Nhìn ánh mắt thằng em còn mở trừng như muốn
cưỡng lại định mệnh nghiệt ngã mà tôi muốn khóc. Tiểu Đoàn 37 Biệt
Động Quân vừa mất đi một cao thủ bida với đường cơ lả lướt và không
lần nào dưới 30 điểm mỗi khi chạm bi, ngoại trừ lúc cố tình câu độ!
Đưa tay vuốt mắt cho thằng em Sài Gòn mà cứ nhớ hoài những lần khoái
trá nhìn Tâm "sún" lần lượt hạ các hảo thủ của Đà Nẵng, dân cũng như
quân, trong những lần đọ sức tại các bàn bida trên đường Độc Lập
suốt một tháng qua.
Tôi thở dài giao xác Tâm "sún" cho Hạ Sĩ Bé rồi đi lần qua hai căn
lều vừa dựng xong giữa sân nắng. Một đòn ‘’bánh tét‘’, xác của Trịnh
Hồng Thanh đã gói sẵn, máu còn tuôn ướt đất. Ba khinh binh khác nằm
rên dưới đất. Nặng nhứt là Minh, mới bổ sung hôm qua, bị toát lưng,
gãy xương sống, đang nằm sấp rên la từng hồi. Còn lại là tân binh
tên Tài bị thương nơi chân và má trái, đang ngồi cúi đầu bập từng
hơi thuốc. Nắng đổ lửa trên đầu, hừng hực trên poncho, cháy bỏng
trên mặt đất. Đã gần hai tiếng đồng hồ mà Nguyễn Thanh Vân vẫn chưa
khai thông được 100 thước tử địa. Không trách được hắn! Con đường
hoang phế đã gần 10 năm. Mìn bẫy, hay có thể cả hầm chông đầy dẫy,
còn Lính thì chỉ có giày saut và lưỡi lê mà thôi! Phải tiết kiệm
nhân mạng tối đa!
14H00.
Rồi cũng bắt tay với nhau sau hơn 2 tiếng phá đường, mở lối! Nguyễn
Thanh Vân và Trung Đội Phó Y Biếc dẫn toán lao công đào binh, cùng
một tiểu đội xuống tải thương và đem nước cho chúng tôi. Chỉ vài câu
trao đổi là anh bạn gốc Long Xuyên vội vàng theo Thượng Sĩ Y Biếc
trở lên đồi. Tôi thầm lo cho Minh. Cột xương sống lòi tủy. Bốn mảnh
băng cá nhân không đủ đắp ngang lưng. Gần ba tiếng chịu đau đớn.
Bao lâu nữa thì mới có trực thăng? Máy bay không hề chờ người. Chỉ
có người sống, cũng như kẻ chết phải sẵn sàng để chờ "chuồn chuồn"
đến bốc. Nhìn lại Trung Đội mới thấy chạnh lòng. Lính âm thầm chịu
đựng và chấp nhận mọi hoàn cảnh. Chúng tôi chỉ còn lại 14 tay súng
và đang hoang mang, khi nhìn chung quanh mình. Nơi đâu cũng nghi ngờ
có bóng dáng của mìn bẫy và Thần Chết!
Tiếng trực thăng kéo tôi ra khỏi trạng thái gần như lạc hồn. "Cánh
thiên thần" đã đến đúng lúc. Nhưng 3 tiếng đồng hồ chịu đựng đau đớn
và mất máu, liệu ông Thái, Minh, Tài và cả một đứa em tân binh bị
gãy chân, còn đủ sức để lâm trận với tử thần trên bàn mổ hay không?!
Tôi choàng tỉnh khỏi cơn chấn động tinh thần, ngay sau khi Thanh
”máy” cho biết Vương Vũ vừa nhắc tới việc lo cho con cái ấm chỗ để
qua đêm; còn Hồ Viết Sành thì mang tới cho tôi một ca sắt, trong đó
là cơm nóng và mít non luộc, cùng với một lát thịt hộp. Thấy tôi
nhìn trân trân mấy miếng mít, thằng em cười ruồi, chỉ tay bâng quơ
qua hướng sân kề bên nói ngay:
- Chuẩn úy đừng lo! Không có mìn đâu. Tụi em coi kỹ lắm rồi mới
‘’vớt ‘’ nó xuống. Còn có canh dưa hường nữa. Em sẽ mang lại ngay.
Không thấy đói, nhưng tôi cũng phải ráng ăn cho có sức và cũng để
không phụ lòng của đồng đội kiêm đứa em ô đô. Vừa nhai, tôi vừa miên
man nghĩ về trái đạn đã loại khỏi vòng chiến một phần ba quân số của
Trung Đội. Lại thêm một sự may mắn vừa đến với tôi và với hai thằng
em đứng kề bên. Bốn người đứng cạnh nhau trên khoảng sân trống trải.
Chúng tôi vô sự. Chỉ có ông Thái bay một cánh tay. Đúng là đạn tránh
người. Có lẽ là nhờ cả ba thầy trò chưa tới số, hay còn có nguyên do
nào khác chăng?!
19H00
Trung đội đóng chốt ngay giữa những miếng đất đã dẫm nát từ ban
sáng, sau một màn săm soi tất cả những nơi chưa có dấu chân hay có
dấu hiệu khả nghi. Báo cáo đầu giờ cho Đại Đội. Một vòng kiểm tra
tuyến đóng quân, đặc biệt là chốt phòng thủ hướng về phía khu làng
chưa kịp tảo thanh. Nhìn địa thế mà tôi thầm ngao ngán mặt dù phía
sau có Trung Đội 2, hướng trên đồi có Trung Đội 3, bên sườn phía
đông có một Trung Đội của Đại Đội 4. Mỗi gốc cây là một dấu hỏi. Mỗi
hàng dậu hay rào thưa, là một gương mặt của Tử Thần.
Không biết ngày mai lệnh lạc sẽ ra sao, chứ nếu như kiểu này thì
chắc chắn ngay cả Vương Vũ cũng phải buột miệng chửi thề không
chừng! Lót ổ xong là mọi người mệt nhoài nên không có những cợt đùa
cố hữu. Lính trầm ngâm hơn thường ngày. Chắc chắn ai cũng đang nhớ
lại thảm cảnh của những ngày qua và nhứt là những đồng đội kém may
mắn. Hôm nay là họ, ngày mai sẽ đến lượt ai?! Có đúng ’’ ... Đi lính
có nghĩa là chờ tới phiên mình bị thương hay tới số... ’’ như lời ai
đó đã nói hay không? Mà thôi! Suy nghĩ vẩn vơ hoài chỉ đày đọa thêm
bản thân. Kệ mẹ nó! Tới đâu thì tới. Lính mà em!
Thứ Năm 01-05-1974. 07h00
Đêm yên lành trôi, dù rất chậm. Cũng may
là không bị đám "chuột nhắt" khuấy phá, dù chỉ bằng tiếng loa phát
thanh như cả tháng qua. Đêm thao thức để thấy lòng bùi ngùi, khi thả
tâm trí ngược về những ngày Lễ Lao Động của thời còn hít thở bụi
phấn trong lớp học và những chuyến rong chơi với bạn bè ngoài Vũng
Tàu. Thế giới hồn nhiên của ngày xưa đã không còn, thay vào đó là
trò chơi súng đạn để tự vệ và sinh tồn. Cứ thế mà vẩn vơ cho đến
sáng tỏ. Mọi người đã thức dậy. Vài ngụm cà phê và điếu thuốc Mélia
làm đầu óc tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Lại một ngày mới đang bắt đầu.
Ước gì ngày nào cũng như sáng hôm nay với trời trong, nắng hồng, để
còn thấy chút hạnh phúc dù rất mong manh, vẫn còn hiện diện trong
lòng.
9h00
- Chuẩn úy! Vương Vũ muốn gặp trên máy.
Thanh ‘’máy‘’ vừa nói, vừa đưa tôi ống liên hợp. Bên kia đầu máy,
tiếng của Đại úy Vương như muốn nghẹn lại khi thông báo là có lệnh
gom dân trao cho chúng tôi để tiếp tục việc phát quang. Lệnh này do
Liên Đoàn ban ra nên dù không tán thành, Vương Vũ vẫn phải tuân
hành. Trung Đội 1 nằm tại chỗ chờ nhận người. Cùng lúc đó thì Trung
Đội 3 cũng sẽ từ trên đồi mở rộng con đường mòn tải thương hôm qua
và khai quang sườn dốc phía tây, để sau đó bắt tay với chúng tôi ở
cuối làng. Còn Trung Đội 2 sẽ qua những làng lân cận để gom người và
‘’mượn‘’ luôn dao, rựa của dân xài, thay vì chỉ có lưỡi lê và xẻng
cá nhân vốn bị hạn chế trong việc phát quang.
Trong khi chờ nhận người, chúng tôi thận trọng dò dẫm từng thước đất
và chú tâm tuyệt đối vào từng bụi cây hay rào dậu quanh tuyến đóng
quân. Để chắc ăn, tôi cho Hạ Sĩ Trần Văn Quý dùng M79 tác xạ vào
những nơi nghi ngờ có mìn bẩy. Anh chàng nổi tiếng thiện xạ và vua
gài lựu đạn này ngứa ngáy đã lâu, nay được dịp trổ tài nên tha hồ
nhả đạn tưng bừng. Quả nhiên, một số mìn trúng đạn nổ tung như muốn
thót tim, làm Thanh ‘’máy‘’ cứ phải luôn miệng báo cáo về Đại Đội để
‘’Bố Già‘’ Vương Vũ yên tâm.
11h30
Đang ngồi nghỉ mệt thì Lê Văn Hữu dẫn 8 người đến giao cho chúng
tôi. Nhìn họ mà tôi than khổ trong lòng, vì ngoại trừ một thiếu niên
mặc bộ đồng phục của một trường Trung Học nổi tiếng của Quảng Ngãi,
còn lại toàn là đàn bà, con gái. Dụng cụ "mượn" về chỉ có một cái
rựa, hai cái cuốc và một con dao phay.
- Có còn hơn không! Xài đỡ đi Huynh Trưởng. Nhân lực và vật lực chỉ
có bấy nhiêu thôi. Chắc là Lễ Lao Động nên họ cũng xả hơi chăng!?
Hữu nói đùa rồi dẫn lính trở lại tuyến của mình. Còn tôi đứng đó,
phân vân không biết phải làm sao. Cuối cùng, tôi báo cáo với Đại úy
Vương rồi quyết định cho một người có vẻ lớn tuổi ra về và dặn bà ta
báo với gia đình những người còn ở lại, là chúng tôi bảo đảm 7 người
còn lại sẽ được đối đãi tử tế. Vài người lên tiếng phản đối, liền
miệng đòi tôi phải thả hết.
Tôi chỉ im lặng nghe họ nói. Nhìn những ánh mắt âu lo nhưng bất mãn
của họ, mà tôi cảm thấy buồn bực. Không có bằng cớ đích xác họ là du
kích hay giao liên, vì theo lời Lê Văn Hữu thì họ bị gom lúc đang ở
ngoài ruộng. Còn hai cô gái trẻ và em học sinh thì nói là nhân ngày
lễ, nên từ Quảng Ngãi về thăm gia đình. Sau cùng, tôi cũng phải đi
đến quyết định là giao họ cho Trung Sĩ Đặng Tri và Nguyễn Văn Bi để
tùy nghi xử dụng. Dù sao thì họ cũng đã ở đây rồi.
Nhưng hai chàng Trung Sĩ chưa kịp dẫn toán người đi, thì bỗng nhiên
có tiếng mìn nổ lớn trên sườn đồi. Đám dân ngồi thụp xuống đất, mắt
láo liên, vẻ mặt hớt hãi. Mọi người đều hướng mắt về phía có tiếng
nổ. Tôi đưa mắt nhìn Thanh ‘’máy’’. Thằng em hiệu thính viên đang
nghe báo cáo điều gì đó. Một lúc sau, nó đến bên tôi nói gọn lỏn.
- Thượng Sĩ Y Biếc! 109 rồi!
Tôi khẽ gật đầu, hối Đặng Tri và Nguyễn Văn Bi dẫn người về vị trí
đã phân công, rồi ngồi thừ người nghĩ ngợi về người Hạ Sĩ Quan gốc
Thượng vừa hy sinh. Vậy là ’’tứ hùng‘’ của Đại Đội 3 giờ chỉ còn lại
một mình Lê Văn Trữ đang làm Thường Vụ Đại Đội. Những chiến sĩ xuất
sắc từ thời Lam Sơn 719 rồi Sa Huỳnh đã lần lượt giã từ vũ khí.
Trong 2 ngày, 2 Trung Đội Phó giã từ cuộc chơi một cách oan uổng.
Trên kia chắc là Vương Vũ đau lòng lắm. Nguyễn Thanh Vân cũng buồn
không kém, vì vừa mất một người thầy dạn dày kinh nghiệm. ĐM! Tôi
bất giác văng tục trong lòng. Tình trạng này sẽ còn kéo dài bao lâu
nữa!? Thật là chán chường gì đâu!
Nhưng đúng là họa vô đơn chí! Vừa nuốt vội chút cơm và chưa hết bồi
hồi với cái chết của Thượng Sĩ Y Biếc, thì một tiếng nổ khác từ tiểu
đội của Đặng Tri vọng lại làm tôi thót tim vì có tiếng lao xao, nhốn
nháo vọng lại: một dấu hiệu chẳng lành. Chúng tôi chạy đến nơi thì
đã thấy Bùi Hữu Tùng, đứa em gốc Vũng Tàu nằm bất động, còn Đặng Tri
thì mặt mày hầm hầm, đưa tay xỉa xói vào mấy người đàn bà đang ngồi
gầm đầu xuống đất, rồi đến bên tôi báo cáo.
- Mấy con mẹ này chắc chắn biết có mìn mà không chịu chỉ. Cứ xớ rớt
khều khều nên thằng Bình tức tối chụp rựa phang. Chỉ mấy nhát là nó
dính chấu. ĐM! Đám này là dân việt cộng đó chuẩn úy!
Tôi cũng muốn nổi khùng nhưng chỉ biết than thầm trong lòng và không
biết phải hành động ra sao. Giận dữ cũng phải nén, đau lòng cũng
phải giấu nhẹm. Tôi hết nhìn hàng rào, tới nhìn xác thằng em. Chúng
đặt mìn dưới đất thì còn có thể rà tìm, gài lựu đạn trên bờ rào thì
vô phương. Nhưng lời của Trung Sĩ Đặng Tri cũng không phải là vô căn
cứ. Chúng nó phải làm dấu cho dân biết để tránh. Nếu không tại sao
chỉ một mình thằng Tùng toát ngực !? Nhưng làm sao tìm ra!? Cũng
đừng hòng đám dân này chỉ điểm. Những người đàn bà vẫn ngồi nhìn
xuống đất mặc cho Đặng Tri hằm hè bước tới bước lui, lẩm bẩm những
câu chửi rủa. Tôi cho lệnh tạm dừng việc phát quang để mọi người
lắng cơn xúc động, rồi kéo Đặng Tri qua phía Trung Sĩ Bi để bàn thảo
riêng kế hoạch đối xử với đám dân, đồng thời cũng để kềm Đặng Trị
khỏi nổi khùng bất tử.
17h00
Đến giờ này mới có trực thăng. Không biết trên kia Đại úy Vương nghĩ
gì về người Thượng Sĩ gốc thiểu số ít nói mà chân chất, đã từng vào
sinh ra tử với ông bao năm qua bây giờ đã "giã từ vũ khí"; riêng
phần tôi cũng quặn lòng vì 7 người mới nhận về hồi Tết, giờ chỉ còn
lại Trần Minh Sơn, một tâm hồn rất...Sài Gòn ! Nhìn đám dân đang
ngồi lết bết chờ được thả cho về, mà thấy ngao ngán cho tình cảnh
của chúng tôi. Giữ họ để phát quang thay Lính thì thật là tàn nhẫn
nếu như họ là người dân vô tội. Dù sao họ cũng không phải là người
cầm súng trực tiếp đối đầu. Tha cả bọn họ thì tôi không có đủ thẩm
quyền. ĐM! Tôi lại chửi thề trong lòng. Bố Vương nói đúng. Thà đụng
chánh quy chứ còn rà mìn, hay truy lùng du kích thì chỉ ‘’từ chết
tới bị thương’’. Thật là nhức óc!
Nhức óc cũng phải cắn răng mà chịu, vì lệnh của ‘’Bố già‘’ phán
xuống cho tôi là phải giữ dân lại qua đêm. Ngày mai tính tiếp. Lại
một phen gom gạo, nhường poncho, đào thêm hố. Lại một màn hăm he
lính mẻ răng vì ngại họ quấy nhiễu một cách sàm sỡ những người phụ
nữ, nhứt là hai cô gái trông khá mặn mòi vốn là nam châm thu hút ánh
mắt hao háo và những bông lơn, cợt đùa, chọc ghẹo của lính từ sáng
đến giờ.
Câu nói ‘’Quân và Dân như Cá với Nước‘’
nghe thật khôi hài làm sao! Dân nào thì không biết chứ những người
đang chuẩn bị qua đêm ngay trong tuyến chúng tôi thì khác. Nếu được,
có lẽ họ sẽ ‘’xơi tái ‘‘ chúng tôi là cái chắc. Và điều này là lẽ
tất nhiên! Có một điều khó hiểu: Bắt dân vào bãi mìn để khai quang
thì làm sao gọi là ‘’bình định, an dân‘’ cho được!? Chẳng lẽ cấp
trên của chúng tôi không biết hay sao?! Thật đúng là nhức đầu, nhức
óc gì đâu!
Thứ Bảy 03-05-1974. 8h00
Hai ngày sinh hoạt chung với nhau mà trong lòng như nước với lửa.
Hai ngày mệt óc vì những lời mắng vốn và thưa gởi của mấy người đàn
bà và cả hai cô gái, về chuyện lính tráng đã có nhiều hành động và
lời nói không đẹp với họ. Hai ngày trần thân vì vừa trấn an dân, vừa
vuốt ve tinh thần của Lính làm tôi mệt nhoài tâm trí. Việc phát
quang chỉ làm cho có lệ nên không ai bị gì. Tình hình an ninh cũng
lắng dịu. Có lẽ là nhờ chúng tôi đang có con tin trong tay. Yên tĩnh
hoàn toàn. Và niềm vui chợt đến khi vừa nhâm nhi xong cà phê sáng là
Thanh ‘’máy‘’ báo tin Vương Vũ cho lệnh thả người và ngưng công việc
phát quang để chuẩn bị bàn giao vị trí cho một đơn vị bạn. Thời gian
sẽ cho biết sau.
Lính khoan khoái ra mặt khi nghe tin đổi quân. Một tháng chơi trò hú
tim trong vùng tử địa đã quá đủ nếu không muốn nói là quá dài. Lệnh
đổi quân đến thật đúng lúc! Chúng tôi cần thay đổi không khí vì đã
quá căng thẳng trong suốt thời gian một tháng vừa qua. Tôi nhìn
quanh tuyến đóng quân để thấy thương đám em út và thương cả chính
mình, khi mạng sống chỉ biết phó mặc cho may rủi. Sống, chết là
chuyện thường tình của đời quân ngũ, nhưng chết vì mìn thì thật là
lãng xẹt!
Không biết thượng cấp có hiểu cho tâm trạng của chúng tôi hay không?! Mà thôi! Đằng nào cũng đã chấm dứt trò chơi đẫm máu trong bãi mìn này. Đức Lương sẽ trở thành kỷ niệm. Một kỷ niệm hy hữu với hình ảnh của những chiếc giày Saut thận trọng thả ‘’từng bước chân âm thầm‘’ trong tử địa.
HUY VĂN
( CUỘC HÀNH TRÌNH )
(*) ba lô = tiếng Pháp Ballot = gói lớn, thùng... )
(**) Dong = loại bò sát 4 chân, hình dạng như tắc kè, kỳ nhông. Sống
trong những đụn cát ven biển.
(***) ô đô = tiếng Pháp soldat au dos = " Đệ tử", ngay sau lưng )
Giầy Saut trong tử
địa
Bóng người hay bụi
sương?
Lần đầu nhập trận
Ngược dòng thời gian
Họa, phúc trong ngày
50 năm thoáng
vội trong ngày
Ukraine & VNCH
Saigon xa đã tròn
năm
Ngày về từ rừng
núi Hiệp Đức
Trường Sơn bỏ
lại sau lưng
Cuộc hành trình
Chung gòng định phận
Cuối cuộc hành trình
2020
Xuân ở nơi nào?!
Giấc mơ Xuân
Ngày ra trại
Một buỗi chiều xuân
Nhánh mai vàng
Đêm xuân
Cuối cuộc hành trình
Thân chiến
quốc, phận lưu vong
Mộ Đức - Một ngày
vào hạ
Từ Mỹ Tho đến
Garden Grove