Thương về các MX Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLC. Xin cám ơn các Sao Mai, các Đại Bàng, đã có quyết định sáng suốt trong giây phút sau cùng.
MX Lê Mạnh Toàn.
Khoảng cuối tháng 2/1975, tôi đi phép thường niên
về thăm gia đình, trung tuần tháng 3/75, tôi ra lại hành quân. Thời
gian này chiến sự bùng nổ nóng bỏng. Những tin tức đưa về dồn dập
được các báo chí, đài phát thanh loan tin không mấy lạc quan.
Ngày từ giã gia đình, ba má và các em tôi bịn rịn, quyến luyến,
không muốn tôi ra đi trong thời gian này. Mọi người đều nhìn tôi với
ánh mắt đầy ái ngại. Má tôi và các em tôi khóc rất nhiều, chỉ có ba
tôi, cũng là một quân nhân, ông nhìn tôi với ánh mắt đầy lo âu như
biết trước những bất trắc đang chờ đợi tôi.
Biết sao bây giờ? Đã sinh ra làm trai thời chinh chiến, phải đi
thôi. Tôi lặng lẽ quay lưng đi nhanh để tránh tất cả những ánh mắt
của mọi người thân yêu, nhưng trong lòng thật sự bồi hồi xúc động.
Tôi trở về vùng hành quân trong lúc tình hình của đất nước gần như
rối loạn vì các tin đồn có thể một trận chiến đẫm máu sắp xảy ra.
Đại Đội 2 TĐ 7/TQLC vẫn còn nằm tại căn cứ Hòa Mỹ. Tôi trở lại đơn
vị, mọi người đều vui mừng, tôi cũng vậy. Những tiếng cười giòn tan,
làm như tất cả đang sống trong thời bình vậy.
Tôi về trung đội cũ được vài ngày, ĐĐT/ĐĐ 2, Đại Úy Ngô Kim Anh tập
họp tất cả sĩ quan cho biết TĐ 7/TQLC sẽ được di chuyển bằng quân xa
vào Đà Nẵng. Bản đồ Quảng Trị–Thừa Thiên bỏ vào đáy ba lô, thay vào
đó là bản đồ Quảng Nam–Đà Nẵng.
Thiếu Úy Lương Văn Nghĩa cười nói:
- Có dịp vào Đà Nẵng dzung dzăng dzung dzẻ rồi đó, các anh chuẩn bị
tinh thần đi!
Chúng tôi đều cười.
Vào họp, Sao Mai trải bản đồ chỉ chỗ chúng tôi sẽ đến và nằm lại,
tất cả thất vọng ra mặt, vì các trung đội đều nằm trên các đỉnh cao
trong núi rừng trùng điệp, không có đường xe chạy. Muốn ra quốc lộ
1, trung đội tôi lội bộ cũng mất nửa ngày, chưa tính đến việc cực
nhọc phải leo đèo lội suối. Eo ơi !
Ngày 19/3/75.
Một đại đội BĐQ đến thay ĐĐ 2, để chuẩn bị cùng TĐ rút về An Lỗ. Một
trung đội BĐQ đến thay tuyến cho trung đội tôi có 14 người. Nghe nói
đơn vị BĐQ này vừa đụng trận ở Thất Sơn Châu Đốc, thiệt hại không
nhỏ. Trung đội trưởng là mộ trung sĩ Họ thật ngỡ ngàng khi trám
tuyến quá dài, 5 chốt tiền đồn cùng PC trung đội. Quân số trung đội
2 lúc đó gồm tăng phái khoảng 52 người. Khi tôi hướng dẫn để bàn
giao các điểm, người trung sĩ nhìn tôi lắc đầu ngao ngán. Tôi mỉm
cười mà chẳng biết nói gì!
Tôi dắt trung đội ra xe GMC về cầu An Lỗ. Pháo 130 của địch pháo
theo vào hai đầu cầu An Lỗ khá chính xác. Có lẽ để lô địch đã trà
trộn vào dân bám theo chúng tôi.
Nằm ở cầu An Lỗ chờ xe mất 2 ngày, chúng tôi được lệnh chuẩn bị di
chuyển, tưởng sẽ đi Đà Nẵng, nhưng trưa ngày 21/3/75, đoàn xe chở
chúng tôi đến bến cảng Thuận An, Huế. Lại có tin thay đổi kế hoạch,
di chuyển bằng tàu về Đà Nẵng.
Tới Thuận An, cho trung đội bố trí chờ tàu, chúng tôi kéo nhau ra
quán cóc bến cảng lai rai, đấu hót, nhưng trong lòng tôi lo âu, linh
cảm những việc bất thường sắp diễn ra. dân chúng Thuận An cũng hình
như lo lắng khi biết tin TQLC rời Quảng Trị.
- Sao Mai mời anh vào họp gấp. Một người lính chạy lại nói với tôi.
Vừa vào Sao Mai nói nhanh:
- Tiểu đoàn của chúng ta phải trở lại Quận Triệu Phong bảo vệ Bộ Chỉ
Huy nhẹ Tiền Phương Sư Đoàn ở Hương Điền rút ra an toàn.
Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Cái quân Triệu Phong này, có người lính
Mũ Xanh nào mà không nghe nói đến. Chúng tôi đã từng đụng địch
thường xuyên, suốt năm 1972, trong trận tái chiếm Quảng Trị và cổ
thành Đinh Công Tráng.
Thương anh em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
Từng đại đội xuống tàu qua phá Tam Giang. Bên kia đã có một đoàn xe
GMC chờ sẵn. Đến lượt ĐĐ 2 xuống LCM thì trời đã hoàng hôn, chỉ còn
ít nắng vàng rơi rớt, như muốn báo cho biết sắp bàn giao giữa ngày
và đêm.
Chiếc GMC nuốt gọn trung đội 2. Tôi ngồi trong cabin với tài xế, xe
từ từ lăn bánh. Nhìn hai bên đường, nhà nhà đã lên đèn, ánh đèn vàng
hiu hắt, ảm đạm thê lương. Đám đông mọi lứa tuổi, già trẻ, trai gái,
đứng im lặng nhìn đoàn xe đi qua. Họ đã thất vọng khi nghe TQLC rút
đi, đem theo cả niềm tin, giờ đây nhìn đoàn xe chở chúng tôi ngược
hương lộ 555 về Triệu Phong, họ ngạc nhiên, trong lòng bừng lên một
hy vọng, nhưng xin lỗi tất cả, chúng tôi không đem lại niềm hy vọng
nào cả!
TĐ 7/TQLC xuống xe ở Hương Điền, khi chúng tôi xuống xe, thì lại có
binh sĩ của Sư Đoàn chất hàng lên xe. Trung đội 2 được lệnh đi đầu.
Trời tối, không trăng sao, phải dùng địa bàn theo hướng kim dạ quang
mà di chuyển về hướng Triệu Phong. Vài trái pháp địch nổ vu vơ, ánh
lửa chớp sáng rồi tối đen. Những người lính im lặng, bước những bước
đi chậm trong bóng đêm. Cho đến khi gần sáng, được lệnh dừng quân bố
trí phòng thủ.
NGÀY 22 & 23/75
Chỉ từng hố phải đào cho trung đội xong, tôi đưa mình vào cồn cát,
rút một điếu Casptan, thuốc ngon lạ lùng, chú cần vụ đưa tôi ca cà
phê, tôi cảm thấy hết mệt mỏi dù qua một đêm dài không ngủ. Tiếng
xẻng đào cát nghe như tiếng đào mộ cho mình.
Trời đã sáng nhưng không có mặt trời. Bầu trời âm u như lòng tôi âm
u. Xa xa ngọn thập giá cao của nhà thờ Triệu Phong nhô cao giữa vòm
lá.
Khoảng 9 giờ sáng, một đoàn lính ĐPQ gần trăm người di chuyển khá
trật tự ngang qua vị trí trung đội tôi. Tôi đang quan sát chợt thấy
chừng một trung đội dừng lại và một sĩ quan đang loay hoay tấm bản
đồ trên tay.
Tôi xuống đồi nhìn người sĩ quan đeo kính cận, cấp bậc chuẩn úy và
hỏi:
- Bị hỏi số nhà hả?
Anh bối rối nhìn tôi:
- Dạ phải huynh trưởng.
- Anh có nhìn thấy cây thập giá trên nóc nhà thờ Triệu Phong không ?
- Dạ thấy.
- Từ đây đến đó khoảng bao xa ?
- Dạ chừng một cây số.
- Anh đo phương giác nghịch sẽ tìm ra tọa độ.
- Cám ơn huynh trưởng.
Tôi quay trở lại PC trung đội thấy vui vui.
Hết tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác rút lui trong trật tự ngang qua
chúng tôi. Tôi chợt cảm thấy mình như nhỏ lại và cô đơn. Giữa vùng
cát trắng mênh mông.
NGÀY 24/3/75
Từ sáng sớm chúng tôi được lệnh rút lui. Đến 10 giờ thì lại được
lệnh dừng lại bố trí. Đại đội đang ở trên một đồi cát có nhiều cây
thông dễ ẩn núp, riêng trung đội 2 được lệnh di chuyển xa đại đội
khoảng 350 mét. Tôi có một tiểu đội nằm trên một đồi cát có mười lăm
cây thông và một vài ngôi mộ rải rác, 3 tiểu đội cùng tôi di chuyển
lên một yên ngựa chạy dài hướng Bắc-Nam. Không có một bụi cây ngọn
cỏ, thật bất lợi, nên tôi đề nghị với Sao Mai, chỉ để ở đây 1 tiểu
đội, còn 2 tiểu đội nằm với tôi giữa đồi cát trắng mênh mông.
Chợt Sao Mai gọi tôi:
- Sẽ có 2 chiếc M41 lên nằm với cậu, khi M 41 tới báo tôi biết.
- Nhận rõ Sao Mai.
Phóng tầm mắt nhìn phía trước, tôi nhìn thấy cách chỗ tôi 200 mét có
một cái mả đá to có tường vây quanh như một căn nhà. Tôi nghĩ, ém
hai tiểu đội ở đó là hay nhất. Dễ phòng thủ hơn là nằm chình ình
giữa bãi cát trắng này.
Tôi chưa kịp thi hành ý định thì có tiếng Sao Mai gọi:
- Anh đã nhận được 2 chiếc M41 chưa?
- Tôi thấy rồi. Họ đang tới.
Trong khi chờ 2 chiếc M41, tôi nhìn ra phía trước, một cảnh tượng
đập vào mắt tôi, hàng trăm người đang chạy hỗn loạn về từ hướng
Triệu Phong, quần áo xốc xếch, có người mặc quần đùi, có người ở
trần, có người chân không giày, chỉ có một số ít là còn cầm M16 và
vài băng đạn.
Cùng một lúc, tôi được tin một Mũ Xanh từ trận tại yên ngựa, mà tôi
có nghe tiếng súng nào đâu. Thế nhưng thật sự Thạch Rene! Đã chết vì
một viên đạn ngay tim. Chúng tôi mất một chiến hữu, không còn được
nghe tiếng đàn hạ uy cầm du dương của anh nữa. Vĩnh biệt Rene!.
Tôi vội cho lệnh mang xác anh về đại đội, truyền thống TQLC là không
bỏ lại xác đồng đội, hay chiến hữu bị thương.
Sao Mai lại gọi tôi cho lệnh:
- Cậu chận tất cả họ lại.
- Sao Mai? Họ đâu còn tinh thần và súng đạn gì đâu, chận lại có ích
gì?
- Cậu cứ chận họ lại tôi sẽ có cách!
Hai chiếc M41 vừa tới, tôi chưa kịp cho hai binh sĩ chỉ chỗ cho họ
nằm thì đoàn lính địa phương quân hỗn loạn chạy qua, nhìn họ tôi
thương hại làm lơ cho họ đi luôn không chận lại, một người lính nói
với tôi:
- Thiếu úy, có T54 Việt Cộng!
Hai chiếc M 41 chưa vào vị trí thì có tiếng la của đám quân chạy
ngang: Xe tăng! Thế là hai chiếc M41 de lui chạy mất dạng cùng hàng
trăm lính ĐPQ.
Chúng tôi chơ vơ giữa biển cát trắng chưa kịp đào hố cá nhân. Tôi ra
lệnh cho trung đội nằm tại chỗ. Đứng nhìn về phía trước, tôi thấy
một cột khói như khói đầu xe lửa cách xa 500 mét chưa nhìn thấy xe
tăng địch. Đám khói đen ngoằn ngoèo giữa những cồn cát, rồi chiếc
T54 hiện ra trước mắt chúng tôi. Để nó đến gần thì bắn chắc ăn,
nhưng chúng tôi không có vị trí ẩn núp, nó phát hiện thì lãnh đủ một
trái 100 ly cùng đại liên 12,7. Tôi cho lệnh M72 khai hỏa ở tầm xa
300 mét. Một trái nổ sát xa thiết giáp, có bóng 5, 6 tên nhảy ra nằm
lại. Trung sĩ Tám la lên:
- Nó bị đứt xích rồi!
Nhưng, chiếc T54 xoay nòng đại bác về phía chúng tôi rồi khai hỏa.
Trái đạn 100 ly nổ trên tuyến, hất tôi té ngồi trên cát, may vô sự,
tôi vội hỏi:
- Có tên nào bị không ?
- Không !
- Rút về tiểu đội sau, lẹ lên.
Cả 3 tiểu đội chạy hết tốc lực mặc cho đạn 100 ly và 12,7 bắn đuổi
theo. Về đến vị trí tiểu đội phía sau, kiểm điểm quân số, thật may,
tất cả vô sự.
Trong lúc trung đội lo đào hố cá nhân, tôi đứng sau một cây thông to
quan sát thì một trái 100 ly nổ cách tôi chỉ 5 mét, tôi nấp sau thân
cây thông vô sự.
Chiếc T54, không hiểu sao nó chỉ có một mình, nằm chình ình ngay
phía trước tuyến chúng tôi. Tôi cho tọa độ xin pháo binh. Sao Mai
nói pháo đang di chuyển chưa tác xạ được.
Im lặng một lát tôi chợt nhớ Đại Đội 2 có chiếc M48 tháp tùng, bèn
gọi:
- Sao Mai, cho M48 thịt nó đi!
- Được.
5 phút sau, có tiếng di chuyển của M48, rồi đại bác khai hỏa. Chiếc
T54 cũng xoay nòng đáp lễ. Tôi đứng xa nhìn hai thiết giáp bắn nhau
như hai cầu thủ giao banh. Chưa bên nào trúng đạn. Chiếc T54 khôn
ngoan lùi lại, chui xuống chỗ trũng chỉ nhìn thấy pháo tháp của nó.
Khoảng nửa giờ sau, hiệu thính viên đại đội gọi tôi:
- Thẩm quyền, đạn đi, quan sát!
- Nhận rõ.
Hai trái đại bác nổ trước và sau chúng tôi. Tôi điều chỉnh lần thứ
ba sát mục tiêu và yêu cầu bắn hiệu quả 100 tràng.
Đạn 105 ly nổ sát mục tiêu, qua làn khói, tôi thấy năm sáu tên VC
nhảy ra nằm sát trên mặt đất. Chiếc T54 không cháy, nó vẫn nằm im
lìm ở đó. Hết trăm tràng, tôi không buồn gọi xin bắn thêm. Nó không
quấy rầy tôi nữa là tốt rồi.
4 giờ chiều Sao Mai gọi tôi:
- Cậu cho con cái gọn ghẽ trước 6 giờ, sẽ có 2 chiếc M113 đến đón
cậu.
- Xin Sao Mai nói rõ hơn.
- Được rồi. 1 và 3 đi cùng trung úy Lê Khắc Phước (đại đội phó ĐĐ 2)
kéo nối theo ĐĐ4 về Thuận An. Còn cậu và thằng 4 (Trung đội vũ khí
nang) đi với tôi bằng xe thiết giáp.
- Nhận 5 trên 5, Sao Mai.
Sau này tôi mới hiểu, trong cuộc rút quân lần này, TĐ7/TQLC đi sau
cùng. Đại Đội 2 của Đại Úy Ngô Kim Anh đi đoạn hậu và Trung Đội 2
của tôi đi sau chót.
Trời đã xẩm tối, tầm quan sát không còn nhìn được xa. Chúng tôi, cả
trung đội đã chuẩn bị xong. Có tiếng máy nổ dưới chân đồi và Trung
Sĩ Nguyễn Văn Tám, trung đội phó chạy lại nói:
- Thiếu úy, xe đã đến.
Tôi đã phân chia trước, trung đội phó và 2 tiểu đội đi một xe. PC
trung đội và 2 tiểu đội chiếc thứ hai.
Tôi nói với mấy anh thiết giáp:“Các anh nên chạy gần nhau, đừng để
khoảng cách quá xa, trời tối sẽ bị lạc, rồi quay dặn Trung Sĩ Tám:
- Nhớ bảo họ chạy theo sát xe tôi.
Khi trung đội tôi đang lên xe, thì mấy chiếc M48 chở đại đội và
Trung Đội 4 chạy ngang qua. Sao Mai dặn tôi:
- Cậu nhớ theo vết xe xích mà chạy theo kẻo lạc.
Chưa dứt lời, chiếc M48 như chiến mã lồng lên, mất hút trong màn
đêm.
Hai chiếc M113 chở trung đội tôi chạy như rùa, tốc độ chỉ bằng một
người chạy bộ tập thể dục. Tôi lo lắng không hiểu chiếc T54 của VC
hay chiến xa nào khác đuổi theo thì thật nguy hiểm… Chúng tôi ngồi
sát vào nhau, im lặng mặc cho gió đêm mơn man trên mắt, trên đầu.
Đằng sau phía Quận Triệu Phong, thỉnh thoảng một ánh lửa chớp lòe
hiện lên một quầng đỏ hồng rồi vụt tắt, trả lại màu đen nguyên thủy
của trời đêm.
Mẹ già M113 cõng đàn con chạy không nổi sao thê lương quá! Tôi bàn
với trường xa, vứt bớt súng đạn trên xe, anh đồng ý, chúng tôi vứt
những thùng đạn đại liên 30 đi, nhưng mẹ như đã già, vẫn ỳ ạch lết
trên đường thiên lý.
Chúng tôi theo vết xích M48 mà đi, ánh đèn xe chiếu không quá 15
mét. Chợt Sao Mai anh gọi tôi:
- Tới Hương Điền, cậu nhớ đón ông công binh làm bổn phận phá hủy kho
đạn Sư Đoàn. Khi nào xong bốc ông ta đi luôn.
Lê lết mãi rồi cũng tới Hương Điền. Gần tới vòng đai BTL, chiếc M
113 ngừng lại, tài xế la lên:
- Có một TQLC đón đầu xe.
Tôi nhảy xuống xe, người trung sĩ Công Binh chạy lại hỏi:
- Có phải xe thiếu úy Toàn?
- Dạ phải.
- Thiếu úy chờ cho một chút.
- Được.
Thế là anh chạy quăng mình vào bóng đêm. Tôi chờ nghe tiếng nổ và
nghĩ, kho đạn này sẽ nhiều đạn nổ ghê gớm lắm, dự trữ cho cả sư đoàn
không biết có chở bớt đi chưa?
Năm phút sau anh Công Binh chạy ra:
- Không nổ thiếu úy! Hồi chiều chạy dây nổ kỹ lắm. Xin chờ em thêm
chút nữa, em coi lại xem sao.
- Được rồi, anh bình tĩnh làm đi.
Anh Công Binh chạy đi, rồi 10 phút sau trở ra vừa thở vừa nói:
- Cũng không được thiếu úy!
- Coi lại một lần nữa, không được thì bỏ…
Tôi hồi hộp hy vọng một tiếng nổ lớn cho xong việc để đi. Anh lính
lại chạy ra. Tôi biết việc không xong, lên máy gọi Sao Mai báo cáo.
Một phút sau, Sao Mai lệnh cho tôi chở ông Công Binh dọt.
Thế là kho đạn không phá được.
Hai mẹ già M113 cõng đàn con lết chậm trong đêm thật tội nghiệp. Xe
chạy chừng 5 phút thì chiếc xe sau bị trật xích. Chúng tôi đành dùng
trái sáng phá hủy xe. Giờ thì cả trung đội tôi, lính thiết giáp, ông
công binh trên dưới 40 người chen chúc trên một thiết vận xa M113.
Chiếc xe chạy không nổi. Nó như nhích từng tấc đường, bỏ lại chiếc
xe sau đang bốc cháy. Chậm nhưng nó còn đi được, chưa phải lội bộ.
Điều lo lắng chẳng nói ra là sợ chiến xa địch truy kích. Mấy chiếc
M48 chạy xa rồi, hình như chỉ còn chúng tôi là những kẻ triệt thoái
sau cùng!
Chiếc M113 đang chậm chậm lết đi, bỗng anh tài xế thiết giáp la lên:
- Thiếu úy nhìn kìa. Tôi nhìn phía trước và giật mình, từ đầu hôm
tới giờ, chúng tôi chạy theo hai vệt xích sắt thôi, bây giờ trước
mặt chúng tôi, vết xích cày nát một vùng rộng lớn bung ra tứ phương
tám hướng, chọn hướng nào mà đi?
Tôi vội lên máy gọi đại đội. Gọi mấy lần không nghe trả lời. Tôi
biết họ đi xa rồi, ngoài tầm máy PRC 25.
Anh trưởng xa hỏi tôi:
- Thiếu úy tính sao?
Không để mọi người mất tinh thần, tôi quyết định thật nhanh:
- Quẹo trái ra biển, rồi theo bờ mé biển chạy về Thuận An. Chiếc
M113 bẻ góc 90 độ, lát sau ra đến biển, chạy theo mé bờ về hướng
Thuận An. Lúc rút lui không đi dọc bờ biển vì e địch sẽ chặn đường
phục kích. Bây giờ không còn con đường nào khác, đành liều thôi… Tôi
nhắc người hiệu thính viên liên lạc với đại đội, vẫn im lặng vô
tuyến.
Mẹ già M113 oằn lưng cõng đàn con lết từng bước như dạo mát ngắm
cảnh biển về đêm. Trời mờ sáng, hết sương khuya lại đến sương mai,
trời lạnh căm. Sương mù dày đặc bao phủ che chở chúng tôi, những
linh hồn bé nhỏ bơ vơ lạc lỏng.
Bỗng có tiếng động cơ nổ phía sau. Tôi quay lại, chiếc M 48 đang lao
tới, trên xe đeo lủng lẳng đầy lính. Gần sát xe tôi có tiếng la:
- Xe của trung đội thiếu úy Toàn kìa! Thì ra đó là chiếc M 48 chở
Sao Mai Anh. Con chiến mã qua mặt xe tôi chừng 100 mét thì ngừng
lại. Xe tôi theo kịp đến gần, tôi nhảy xuống xe hỏi:
- Có chuyện gì vậy Sao Mai.
- Chạy suốt đêm rồi nên hết xăng, à mà sao cậu đến trước tôi hay
vậy?
Tôi vắn tắt báo cáo một M113 đứt xích, tất cả dồn vào một xe. M 48
cũng phải đốt một chiếc vì hết xăng, tất cả bám vào chiếc M 48 này,
chạy đến đây cũng hết xăng. Tôi ra lệnh cho tất cả xuống xe, nhập
với toán của Sao Mai, hàng dọc tiến bước, trả tự do cho chiếc M113.
Một trái M 72 phá hủy chiếc M48 hết xăng.
Rất may, chúng tôi cách Thuận An chẳng còn bao xa.
NGÀY 25/3/75.
6 giờ sáng, chúng tôi đến bờ bên này cửa Thuận An. Hàng trăm dân,
nón lá bồng bế con gọi nhau í ới, chạy tới chạy lui tìm nhau. Một
chiếc M.48 ngâm mình dưới nước, chỉ còn cái pháo tháp và nòng đại
bác nhô cao. Vài ba chiếc quân xa lật ngang trông thảm hại. Dăm ba
chiếc ghe gọ, ngược xuôi, chở khách qua sông. Tất cả đều vội vàng
như chạy đua với thời gian.
Sao Mai Anh gọi tôi:
- Cậu coi liên lạc kiếm đò qua sông.
Tôi gặp một ông già tầm thước, mặt khắc khổ, da sạm nắng, nhờ ông
giúp kiếm đò qua sông. Ông ngập ngừng muốn từ chối. Tôi nói
ngay:“Ông bảo ai có đò, đưa chúng tôi qua sông, chúng tôi trả tiền
sòng phẳng”. Ông bèn gọi những chiếc ghe, chiếc gọ đang chở khách
ghé lại đón chúng tôi chở qua sông.
Qua được bên kia sông, tôi gặp 2 trung đội do Trung Uy Phước dẫn đi
hồi hôm đang ngồi nghỉ ở đó chờ chúng tôi. Trung úy Phước hỏi tôi:
- Đi xe sao giờ này mới tới.
- Đi xe mà chạy như rùa, thua đi bộ. Giờ này tới là may rồi. Anh tới
lâu chưa?
- Cũng mới qua sông chừng nửa tiếng.
Ngồi nghỉ một lúc, chúng tôi lại lên đường. Đại đội đi hàng dọc,
trung đội tôi vẫn bao chót.
Lệnh không cho dân chúng và lính các đơn vị bạn đi chung với TQLC.
Họ bám theo sau, mong được yên ổn và hy vọng theo tàu với chúng
tôi,Tổng Trừ Bị ưu tiên.
Bên này khác hẳn bên kia sông, có không biết bao nhiêu người, sang
hèn, quan lính, giàu nghèo, tất cả mọi thành phần xã hội đều đổ dồn
về đây, hàng chục thiết giáp, xe vận tải, xe hàng, có đến hàng trăm
ngàn người náo động cả một vùng biển Thuận An.
Lệnh tạm dừng lại, Sao Mai cầm bản đồ chạy lên trước họp với ptiểu
đoàn, rồi chạy về ra lệnh di chuyển nhanh lên phía trước không cho
một người lạ nào lẫn trong hàng quân.
Chúng tôi tiếp tục đi nhanh hàng dọc, tách rời những người không
phải là TQLC. Họ bám theo sau nhưng không được đi song song với
chúng tôi. Vượt qua một quãng xa, chúng tôi được lệnh bố trí phòng
thủ.
Trung đội tôi nằm kéo dài theo một bờ cát thấp, cách bờ biển 100
mét. Sát bờ làng, sau những rặng cây có một ngôi trường cũ, rêu đóng
đen, hình như bỏ hoang từ lâu, cách vị trí trung đội tôi khoảng 200
mét.
Trung đội đào hố trên cát thật nhanh. Tôi lấy thuốc ra hút, nhìn ra
biển xa. Biển hôm nay động vừa, những đợt sóng vẫn nối nhau vỗ vào
bờ như tự thuở nào. Xa xa một chiếc tàu Hải Quân lớn nhấp nhô trên
sóng nước.
Chợt tôi nhìn thấy khoảng 5 chiếc LCU đang từ ngoài khơi chạy vào
bờ, nhưng không vào trong bờ mà cứ chạy vòng ngoài xa, như chờ đợi
bãi đổ bộ an toàn.
10 giờ sáng, một Cọp Biển la lên: Việt Cộng! Rồi có những loạt M16
bắn về phía ngôi trường học bìa làng. Tôi quan sát thấy khoảng 10
tên lính CS, quân phục Kaki xanh, nón cối, có lẽ là một toán trinh
sát quân chính qui Bắc Việt.
Mỗi khi lính VC xuất hiện nơi cửa sổ là Mũ Xanh nổ súng. Tôi phải
bảo anh em đừng bắn bừa bãi, phải tiết kiệm đạn dược. Lính Cộng như
khiêu khích, chạy ra nấp ở gốc cây nổ vài phát lại chạy vào trong
trường ẩn nấp. Chúng tôi không có súng lớn, pháo binh thì gọi ai bây
giờ.
Quay nhìn ra khơi, mấy chiếc LCU vẫn chạy vòng ngoài xa chưa chịu
cặp vào bờ.
Quá trưa, Sao Mai Anh gọi tôi:
- Cậu cẩn thận kẻo ngộ nhận. Trung đội của Thiếu Úy Nghĩa đang chạy
dạt về hướng cậu đó.
- Nhận 5 Sao Mai. Tôi chưa kịp lên tiếng thì Nghĩa gọi tôi:
- Toàn, tôi đang dẫn trung đội về phía anh, bảo binh sĩ đừng bắn
lầm.
- Tôi biết rồi, nhưng anh nhớ phía trái anh có một tiểu đội VC trong
ngôi trường cũ, đừng đi gần đó.
- OK tôi thấy rồi.
- Khi nào cách tôi 150 mét thì nằm lại liên lạc với tôi, VC vẫn bắn
tụi tôi đấy.
Năm phút sau.
- Toàn, tôi cách anh khoảng trăm mét.
- Anh bắn ngang qua đầu tôi một băng M16 rồi vô. Tôi chỉ thị cho
trung đội tôi biết rồi.
Tạch tạch tạch… trung đội Nghĩa chạy vào trong tuyến như một cơn
lốc. Nghĩa chạy lại chỗ tôi, tay bị thương đã băng kỹ càng. Anh hỏi
tôi:
-Đại đội ở đâu?
Tôi chỉ cho anh. Nghĩa dẫn trung đội lao đi, phút chốc đã mất dạng.
Trong lúc này thì lính của tôi và VC vẫn trao đổi với nhau bằng đạn
AK và đạn M16. tôi đang lo thì một TQLC la: Tao hết đạn rồi! Tôi gọi
về đại đội. Tiếng Sao Mai buồn:
-Cậu biết đó, giờ này tôi đào đâu ra đạn cho cậu, nhớ bảo con cái
tiết kiệm.
Tôi thở dài ngao ngán. Một vùng trời ảm đạm bao trùm lấy chúng tôi.
Có phải giờ này số phận của chúng tôi đã được an bài!
Những chiếc LCU vẫn như đùa bỡn chạy vòng ngoài khơi. Cách chúng tôi
chỉ khoảng 140 thước. Đám quân lẫn dân nằm ngồi chờ đợi kiên nhẫn.
Những người lính gom nhặt đâu đó được chừng nửa nón sắt đạn M16, một
trái lựu đạn và 2 trái M79, một người bò vào trao cho chúng tôi. Thế
là quý rồi, chê khen gì nữa giờ phút này, chịu khó chùi sạch lắp vào
băng.
Lần thứ hai, cũng lại một anh lính bộ binh bò tới trao cho chúng tôi
1/3 nón sắt đạn trộn cát. Cuối cùng một anh bò vào nắm trong tay
chừng 6, 7 viên M16 đầy cát. Cả ba chuyến tiếp tế, ôi sao mà thảm
hại!
Trong lúc này, tụi CS trong trường không bắn ra nữa. Tiếng súng tạm
im.
Rảnh tay, tôi nhìn ra bãi biển. Một chiếc LCU đã ủi bãi cách tôi
khoảng 250 mét. Hàng trăm người ùa chạy xuống không còn trật tự gì
nữa, tất cả chen lấn la hét, chửi nhau, lính đủ loại chen với dân,
và một số Cọp Biển được ưu tiên lên tàu trước.
Họ đã mệt mỏi trong chờ đợi, giờ này chỉ mong chen được một chỗ trên
tàu, vì đó là hy vọng để sống thoát. Người lên trước vào trong lòng
tàu, còn lại bám trên boong, bám vào thành tàu, níu vào những sợi
dây xích đu đưa theo sóng biển nhấp nhô. Không còn chỗ nào chứa, thế
mà vẫn còn hàng trăm người bì bõm bơi ra tàu. Từ xa nhìn như đàn
kiến bu vào cục đường, chỉ còn nhìn thấy kiến mà thôi.
Chợt tôi nghe một tiếng nổ của đạn M72, một làn khói đen bay theo
đầu đạn một đoạn ngắn, trái đạn bay về phía chiếc LCU mắc cạn, nghẹt
cứng người, nổ tung, những thân người đang bám vào thành tàu rơi
xuống biển, trôi dập dềnh, tiếng la khóc vang trời. Số người còn
sống bây giờ lại phóng xuống biển bơi vào bờ.
Trong lúc này, tôi nghe có tiếng đề-pa của súng cối. Từng trái cối
60 ly chụp xuống vị trí trung đội 2. Địch đã vận chuyển tới vài khẩu
cối 60 ly và khá nhiều đạn. Chúng pháo liên tiếp hàng chục loạt phủ
đầu, những tia lửa đỏ cạnh hố cá nhân, khói làm cay chảy nước mắt.
Trái nổ gần 2, 3 thước, cát ào xuống hố cá nhân. Chúng tôi như bị
chôn trong cát. Vừa quan sát chúng tôi lấy mũ sắt xúc cát thảy lên
miệng hố.
Chúng tôi như cá nằm trên thớt, lúc trước pháo binh đã dập tắt những
khẩu cối này dễ dàng mau chóng. Còn bây giờ, chúng tôi giơ đầu chịu
trận, Cọp Biển đã bị trói tay trói chân. Một tiểu đội trưởng báo
cáo:
- Thiếu úy, thằng Bé và thằng Đện chết rồi.
Binh nhất Nguyễn Văn Bé xạ thủ M79 và B1 Nguyễn Văn Đện phụ xạ thủ
nằm chung một hố và một trái lọt vào đưa hai đứa đi luôn.
Đện hay mắc cỡ, thẹn thùng như con gái, Bé có tài bắt rắn. Chưa một
con rắn nào dữ tới đâu thoát khỏi tay Bé. Có lần tôi hỏi Bé:
- Anh bắt rắn có bùa không?
- Không thiếu úy.
- Rắn cỡ nào cũng bắt được sao?
- Càng to càng tốt.
Tôi cảnh giác Bé:
- Trung đội không có thuốc trị nọc rắn độc, nếu bị nó cắn là chết
chắc.
- Không sao đâu thiếu úy. Rắn cắn em chỉ xoa vài cái là hết. Tôi hơi
ngạc nhiên, anh giấu tôi điều gì, nhưng không hỏi nữa, quả thật anh
bắt rắn tài như những người bắt rắn có bùa ngải mà tôi nghe nói.
Thạch Ranel!, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Đện, ba chiến hữu đã hy sinh
những ngày cuối cùng, xin hãy yên nghỉ nơi vĩnh hằng, hình ảnh các
anh không phai mờ trong lòng chúng tôi.
Dứt pháo tôi cho chuyển xác hai anh về đại đội, may ra thi hài anh
được đưa về cho thân nhân mai táng. Khi kéo xác khỏi hố, tôi thấy
Đện bị gẫy xương cổ, cái đầu anh lúc lắc, Bé bị vỡ nát ngực, cánh
tay trái gãy chỉ còn dính chút da, bộ quân phục màu sóng biển đẫm
máu và cát…
Địch ngưng pháo, có lẽ hết đạn. Tôi nhìn ra biển. Những chiếc LCU đã
chạy về đâu. Chiếc tàu Hải Quân cũng ra xa hơn. Vùng biển đầy người
lúc trước, bây giờ vắng lặng. Trời tối dần, ngôi trường có địch đã
chìm trong bóng đêm. Tôi ngồi trong hố cá nhân đầu trống rỗng, thân
xác như tê liệt. Chợt người hiệu thính viên gọi tôi:
- Ông thầy, Sao Mai gọi lên họp…
Tôi gọi Trung Sĩ Tám dặn dò đôi điều rồi lững thững bước xuống gò
cát, đi vài bước bỗng có tiếng lên đạn và tiếng nói của một anh lính
ngoài binh chủng:
- Đứng lại, không được đi nếu không tôi bắn.
Thật là mỉa mai, cái đám chết nhát nằm chết dí trên cát chỉ chờ chạy
lên tàu, mà giờ này uy hiếp tôi. Tôi vẫn bước đi la to:
- Tôi đi họp, ông nào ngon cứ bắn.
Trung sĩ Tám cũng la lớn:
- Thiếu úy đi họp, mấy ông đừng làm ẩu.
Tôi lững thững đi trong tiếng gió và tiếng sóng biển, không tiếng
người.
Lều của đại đội trưởng nằm sau một ụ cát. Một tia sáng yếu ớt từ
bóng đèn nhỏ, tôi kéo vải lều chui vào. Tất cả đủ mặt tôi là người
đến sau cùng. Bầu không khí nặng trĩu bao trùm lấy tôi. Từ Đại Úy
Ngô Kim Anh, Đại Đội Trưởng ĐĐ 2, Trung Úy Lê Kim Phước, đại đội
phó, các trung đội trưởng, Thiếu Úy Lê Tấn Huấn trung đội 1, Th/Úy
Lương Văn Nghĩa, trung đội 3, Th/Úy Vân, trung đội 4, ánh mắt mọi
người đầy lo âu, thất vọng, tôi không nhìn được mặt tôi, nhưng chắc
cũng như mọi người, chán nản và tuyệt vọng, chúng tôi như cá nằm
trong lưới mất rồi !
Mọi người nhích ra một chút, nhường chỗ cho tôi ngồi trên cát.
- Th/Úy Toàn đến rồi, thế là đủ. Chúng ta đi ngay vào nội dung buổi
họp.
Lướt nhìn mọi người, Sao Mai Anh nói với giọng thật buồn:
- Tôi mới họp trên tiểu đoàn về. Theo tinh thần buổi họp thì tối nay
nếu từ 10 giờ đến nửa đêm mà không có tàu vào đón tiểu đoàn, chúng
ta sẽ phải buông súng. Mọi người tự tìm phương tiện về với gia đình
nếu được.
Nét mặt thất vọng buồn nản hiện rõ trên mọi khuôn mặt. Tôi chợt nghĩ
chưa kịp nói thì Trung Úy Phước nói trước:
- Sao mình không mở đường máu vào Lăng Cô rồi vượt đèo Hải Vân vô Đà
Nẵng? Chúng tôi nhao nhao đồng ý, Sao Mai chậm rãi hỏi:
- Các cậu coi lại tình trạng súng đạn của mình có đủ để đánh không?
Tôi chợt tỉnh, câu hỏi đánh vào yếu huyệt chúng tôi.
- Hết rồi!.
- Bây giờ đánh mở đường máu, ai yểm trợ, ai tiếp tế lương thực đạn
dược, ai tải thương? Vô ích thôi, máu binh sĩ sẽ đổ nhiều, rất nhiều
!
Chúng tôi im lặng, cũng có nghĩa là chúng tôi đồng ý với các Sao
Mai, các Đại Bàng.
- Còn ai có ý kiến gì không?
Chúng tôi buồn bã nhìn nhau cùng lắc đầu.
- Tan họp.
Sau này ở trong trại tù Cộng Sản, chúng tôi ngồi ôn lại chuyện xưa,
thì tất cả cùng đồng ý là các Sao Mai, các Đại Bàng đã có một quyết
định thật sự đúng đắn. Xin cám ơn Đại Bàng, cảm ơn Sao Mai đã có
quyết định sáng suốt trong những giây phút cuối cùng!
Trên đường trở lại trung đội, đầu óc tôi nghĩ ngợi lung tung. Dân
vùng Thuận An này đã phá hết ghe xuồng, giấu máy, giấu tàu, chẳng
còn cách nào thoát ra khơi, trừ khi hóa thành cá. Tôi tập họp các
tiểu đội trưởng, nói lại những điều không muốn nói. Mọi người cũng
có ý nghĩ phá vòng vây, mở đường máu, nhưng đạn hết rồi, lấy gì mà
đánh. Tan hàng bớt đổ máu. Hãy cho mọi người hiểu như vậy, ai may
mắn tìm về với gia đình.
Tôi ngồi dựa vào mô cát, lấy thuốc ra hút. Nhìn ra biển, con tàu hy
vọng đã xa tít ngoài xa. Chuyện có tàu vào đón 10 giờ hay 12 giờ,
chỉ là vu vơ, hay chỉ là một kế hoạch được thảo ra do thượng cấp chỉ
thị, mà thuộc cấp vì nhiều khó khăn không thi hành được.
Hút xong điếu thuốc, tôi ngồi vào hố cá nhân với người hiệu thính
viên, anh hỏi:
- Ông thầy, có gì lạ không ?
- Sau 12 giờ đêm mà không xuống được tàu thì buông súng, chờ VC tới
bắt
Anh ta giật mình hoảng hốt:
- Thiệt hả ông thầy?
Tôi vỗ vào vai anh:
- Thiệt đó! Các Sao Mai, các Đại Bàng và còn cả Tiểu Đoàn Hùm Xám và
tôi nữa còn không sợ, anh lo quá làm gì? Hãy phú cho số mạng đi.
Chúng tôi im lặng, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Đầu óc tôi
trống rỗng, trí óc tê liệt. Thôi đành buông xuôi tất cả. Thế cờ đã
vào nước bí, chờ đối thủ chiếu tướng. Mình đầu hàng!
Chợt người hiệu thính viên hốt hoảng:
- Ông thầy, sao người ta chạy hết rồi. Tôi bước lên khỏi hố cá nhân,
người lính truyền tin lên theo. Tôi nhìn xuống thác người hàng ngang
chạy dọc theo mé biển về hướng Nam. Tôi có cảm tưởng như họ đang bị
một con quái vật khổng lồ cuốn hút vào hang sâu vô tận… Chỉ nghe
tiếng chân sầm sập trên cát.
- Liên lạc với đại đội, tôi nhắc người hiệu thính viên. Anh gọi
nhiều lần, không có ai trả lời:
- Đại đội chạy rồi, không liên lạc được ông Thầy.
Bây giờ gần nửa đêm, tôi biết giờ nghiệt ngã đã điểm. Cả trung đội
không lệnh mà tề tựu quanh tôi, không thiếu một ai. Tôi thật sự xúc
động, niềm tự hào lầm lẫn tự ái dâng lên. Tôi dằn cảm xúc nói:
- Các bạn nghe đây, theo chỉ thị thượng cấp, chúng ta hết nhiệm vụ
từ lúc này. Trung Đội 2 tan hàng. Tất cả buông súng.
Nói xong, tôi ném mạnh khẩu colt ra thật xa. Cả trung đội lần lượt
vứt súng xuống bãi cát.
- Các bạn. Thôi chia tay. Tôi mong anh em đừng làm điều gì thiếu suy
nghĩ, hãy cố gắng bằng mọi cách tìm về với gia đình, về với những
người thân yêu, thoát được người nào hay người đó.
- Đi đâu thiếu úy ?
- Chạy theo họ, tới đâu hay đó!
- Thiếu úy đi đâu, em theo đó.
Tôi im lặng đi nhanh, vào dòng người vẫn nối nhau chạy, cả trung đội
nhập vào theo. Canh bạc cháy túi rồi. Tôi như người máy, chân bước
những bước chân vô định theo thác người trôi về Nam. Không biết bao
lâu, tôi bừng tỉnh, nhìn bên cạnh, người lính truyền tin vẫn còn đeo
chiếc máy PRC 25, đi bên tôi. Tôi nắm anh lại:
- Giờ này mà còn cõng cái của nợ này làm gì?
Anh đáp trong tiếng thở dồn dập:
- Ông thày chịu trách nhiệm nghe!
Trời ơi, tôi dở khóc dở cười cho cái ngây thơ của người lính Cọp
Biển của tôi.
- Ừ, tôi chịu hết. Tôi phụ anh ném máy xuống biển.
Ném máy xong, tôi móc cái bóp nhỏ, trong bóp còn 2.000$, một căn
cước quân nhân, giấy chứng chỉ tại ngũ, một cánh phượng vĩ ép thành
hình con bướm với dòng chữ Forget Me Not của người nữ sinh Huế tặng
tôi trong thời gian quen nhau. Tháo luôn cặp thẻ bài, tôi chôn tất
cả xuống cát biển Thuận An đêm nay.
Quanh tôi còn chừng 5 người, chúng tôi lại chạy. Tôi như cái xác
không hồn, hay người mộng du, lúc tỉnh, lúc như mê. Không biết bao
lâu, tôi lại tỉnh nghe tiếng gọi thân quen:
- Thiếu úy đâu mày?
- Đang chạy phía trước đó. Tôi đứng lại. Thêm một lần nữa, tôi hãnh
diện, tôi cảm động, tôi vẫn còn là ông thày, còn là thiếu úy trung
đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLCVN. Trung đội
không vũ khí, bị xé nát ra theo dòng thác người, bây giờ lại tề tựu
chung quanh tôi. Tôi nói theo thói quen:
- Trung đội đủ chứ?
- Dạ đủ cả, không vắng mặt ai.
Tôi cảm thấy lòng ấm lại. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh đêm
nay. Có tiếng đề nghị: Chúng ta nắm tay nhau cùng chạy sẽ không bao
giờ lạc nữa. Tôi không có ý kiến, có ích lợi gì không, nắm tay nhau
chạy về đâu? Tuy vậy, tất cả cũng tay nắm tay thả trôi theo dòng
người đi tới.
Cứ thế chúng tôi đi. Tôi lại mộng du, không nghe, không nhìn thấy gì
rõ ràng cả. Thỉnh thoảng nghe có tiếng nổ lựu đạn của một vài Cọp
Biển không muốn khuất phục Cộng quân, ngồi chụm lại, rút chốt, tự hy
sinh.
Tôi buông trôi, nghe tiếng nổ mơ hồ, thoáng nghe tên quen những
người vừa tử vẫn, trước và sau tôi chỉ là những bóng mờ lung linh,
Trung Đội 2 vẫn nắm chặt tay nhau cùng chạy. Cuối cùng trong vòng
trại giam tù binh của Cộng Sản.
Đó là rạng ngày 26 tháng 3, năm 1975.
Seattle April 3rd 2003
Mũ xanh Lê Mạnh Toàn
471 của tôi, Đại đội C của tôi
Phương Nam : Ánh sao nơi cuối Trời
Chiến Đoàn A TQLC và trận Đức Cơ
Danh sách cha con, anh em ruột cùng phục vụ trong binh chủng TQLCVN
Đặc khu Rừng Sát… và những ngày sau cùng
ĐĐ4/TĐ2/TQLC Tiêu diệt CX thuộc TĐ Tăng 202
Dấu chân người lính Pháo Thủ MX
Một thời để yêu, một thời để nhớ
Người lính Mũ Xanh và Bé dấu yêu Trưng Vương
Trung Đội 2/TĐ7 & những ngày cuối cùng
471 của tôi, Đại đội Viễn Thám C của tôi
Pháo Đội A/TQLC Chiến Trận Hè 1972
Tàn bạo, lừa bịp , khoác lác là bản chất CSVN
Tiểu Đoàn 2 và những biến cố chính trị
Tiểu Đoàn 3, cuộc hành quân Toàn Thắng 1969
Trại Thanh Cầm và dòng sông Mã
Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLC