[_templates/thtqlcvn-header.htm]
|
|||
NHỮNG NGƯỜI LÍNH BỊ BỎ RƠI Bằng-Phong.
Gia Đẳng, Quảng Trị ngày 7/3/1975.
Có lẽ do t́nh
thầy tṛ sắp chia tay nhau nên khi thoáng trông thấy Khương là bao
nhiêu kỷ niệm cũ hiện ra làm tôi cảm động, nhớ về những gian nan
từng trải qua cùng anh em. Có những lần tiểu đoàn đụng nặng, cả
trung đội Quân Y phải thức suốt đêm để cứu chữa thương binh, thầy
tṛ chúng tôi tận dụng tất cả những ǵ đă học hỏi được để cấp cứu,
cố mang họ ra khỏi bàn tay của tử thần rồi sáng sớm hôm sau chúng
tôi bồn chồn lo lắng chờ đợi trực thăng tải thương đến. Có lần
Khương đă nhanh tay giúp tôi cứu một thương binh mà tôi không bao
giờ quên: Tiếng hô “NGHIÊM” của Trung Sĩ Khương làm tôi trở về hiện tại, tôi cho anh em thao diễn nghỉ, tôi đă định nói thật nhiều về trách nhiệm và bổn phận của người y tá ngoài mặt trận, nhưng khi nh́n những khuôn mặt rắn rỏi thân yêu, những cánh tay lực lưỡng xâm hai chữ “Sát Cộng”, ḷng tôi bỗng bùi ngùi xúc động. Đă hai năm rồi chúng tôi chia ngọt xẻ bùi cùng cay đắng với nhau, nay là lúc tôi ra đi để nhường chỗ cho người y sỹ khác, sự chia tay này không dễ dàng như tôi tưởng. Tôi nghẹn ngào căn dặn anh em như một người anh cả trong gia đ́nh: _ “Bây giờ t́nh thế rất nghiêm trọng, Cộng quân có thể mở những trận đánh quyết định bất cứ lúc nào, tôi mong anh em đoàn kết bảo vệ lẫn nhau và giúp đỡ BS Thi hoàn thành nhiệm vụ”. Sau khi bắt tay và an ủi từng người đệ tử cũ và chào ông bác sĩ mới, tôi lên ban 3 tiểu đoàn để chào từ giă các sĩ quan tham mưu và gọi máy C25 để từ biệt bốn ông đại đội trưởng. Lại một màn giă từ đầy cảm động, tôi đă sống với TĐ.9/TQLC ngót hai năm, t́nh chiến hữu đă đổi thành t́nh huynh đệ, tôi không muốn rời khỏi tiểu đoàn trong t́nh thế nóng bỏng này. Bỗng một quyết định đến với tôi mà cho đến giờ phút này tôi cũng không biết đúng hay sai, lư doTĐ.9/TQLC bấy giờ đang trực thuộc LĐ.258/TQLC đóng tại Mỹ Thủy, Quảng Trị, nếu tôi về Đại Đội Quân Y/LĐ258 th́ tôi vẫn có thể săn sóc thương binh của TĐ.9 khi trận chiến xảy ra, tôi liền mượn máy Tiểu Đoàn 9 gọi cho Tiểu Đoàn Quân Y của SĐ/TQLC tại Hương Điền để tŕnh bày quyết định này. May thay TĐT Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế hiểu được nhu cầu cần thiết trên tuyến đầu nên chấp thuận tăng phái tôi cho ĐĐ QY/LĐ 258 trong ṿng hai tuần lễ. Con đường từ băi biển Gia Đẳng đến băi biển Mỹ Thủy là một chi nhánh của Hương Lộ 555, đây là một HL tuyệt đẹp, một bên là cát trắng biển xanh bao la, một bên là những đồi dương liễu nên thơ, và hương lộ này cũng đă đi vào văn học lịch sử thế giới bởi nhà văn thân Cộng người Pháp quốc tịch Mỹ tên Bernard Fall. Năm 1953 Bernard Fall đă đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp hành quân trên HL.555 và đă chứng kiến đoàn quân này bị Trung Đoàn 95 Việt Minh đánh bại. Về nước, Bernard viết cuốn sách “Street Without Joy” trong đó anh ta đă thần thánh hóa TĐ.95/VM, đây là một cuốn sách rất nổi tiếng, được dịch ra nhiếu thứ tiếng và đă biến Bernard thành một đại văn hào. Năm 1966, Bernard Fall trở lại Việt Nam để đi theo cuộc hành quân của TĐ.1 và TĐ.2/TQLC, đổ bộ tại Gia Đẳng, tiến quân đọc theo HL.555 lên phía Bắc, dồn Trung Đoàn 95 VC (Tr.Đoàn 95 VM dưới thời VNCH được gọi là Tr.đoàn 95 VC) tới bờ sông Vĩnh Định, Bích La Thôn và tiêu diệt trung đoàn này dưới con mắt đau buồn của Bernard. Sau khi chứng kiến TrĐ.95VC bị hai Tiểu Đoàn 1&2/TQLC d́m xuống ḷng sông Vĩnh Định, Bernard Fall đă đi theo quân đội Mỹ hành quân trên HL555, nhưng quân đội Mỹ đă không bảo vệ anh như TQLC/VN mà anh ta đă không tiếc lời nguyền rủa và rồi Bernard đă đạp phải ḿn bẫy của TRĐ.95/VC c̣n sót lại và chết trên “Street Without Joy” của anh ta! Nói đến HL555 mà không nói về Bích La Thôn th́ quả là một sự thiếu sót, đây là một thôn làng xinh đẹp nằm bên bờ ngă ba sông Vĩnh Định, một con sông đẹp không kém ǵ sông Hương, nơi đây có một chiếc cầu thơ mộng mà dân địa phương gọi là cầu Ba-Bến. Tục truyền rằng cách nay hơn 200 năm, có một vị chúa Nguyễn đầy ḷng nhân từ, trước khi qua đời ông đă ra lệnh thả tất cả các cung nữ của ông về Bích La Thôn để họ làm lại cuộc đời, không biết v́ ảnh hưởng di truyền hay v́ phong thủy hữu t́nh mà những người con gái của Bích La Thôn đều có một sắc đẹp lạ lùng, khác hẳn với các giai nhân những vùng khác của đất nước, ở đây họ sống mộc mạc nhưng vẫn giữ những tập tục của Hoàng Cung Huế. Bởi vậy tại miền Trung có câu tục ngữ: “Cau Vỹ Dạ, gái Bích La”. Đang mải nghĩ về anh văn sĩ người Pháp ngây thơ và lăng mạng, về những người đẹp Bích La Thôn th́ xe đă đến Mỹ Thủy và rẽ vào BCH/LĐ.258/TQLC.
Mỹ Thủy, Quảng Trị .. Ngày 08/3/1975 đến 18/3/1975. Ngày 11/3/1975, đài BBC loan tin Ban-Mê-Thuột bị thất thủ, tôi vội lên Ban Ba Lữ Đoàn để biết thêm tin tức th́ gặp Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, một vị TĐT cũ của tôi và lúc này tôi mới biết ông đang là LĐP/LĐ.258, (LĐTr. là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo), chúng tôi vui mừng chào hỏi nhau rồi anh Lượm mời tôi ăn cơm tối cùng với Đại Úy Quận Ban 2 LĐ. Trong bữa cơm anh buồn bực nói: _ “Cái “chiến lược” đem lực lượng tổng trừ bị căng ra để giữ đất không khá được, trong khi VC chúng tụ quân đánh ta chỗ này chỗ khác. Đất mất mà quân c̣n th́ ta chiếm lại mấy hồi, c̣n quân mất th́ làm sao giữ đất?”. Tôi hỏi ông liệu có một trận đánh quyết định tại QKI th́ ông trầm ngâm: _ “Quân CSBV bây giờ không mạnh bằng năm 1972, v́ những quân tinh nhuệ của chúng đă bị ta giết gần hết rồi, bây giờ chúng thay thế bằng đám thanh niên mới thiếu kinh nghiệm tác chiến, chúng biết QĐ.I/QKI có 4 sư đoàn thiện chiến, vũ khí đạn được tích trữ đầy đủ, dù có đánh nhau một hai năm cũng chưa hết, v́ thế chúng sẽ không mở một trận đánh quyết định tại QKI mà chỉ bám sát, đợi lúc ta rút quân có sơ hở th́ mới đánh”. Sự tiên đoán của Trung Tá Lữ Đoàn Phó LĐ.258/TQLC khá chính xác, v́ cho tới ngày 29/3/1973 khi QĐ.I rút khỏi Đà Nẵng, đă không có một trận đánh lớn nào xẩy ra.
Ngày 16/3/1975
Lữ Đoàn 369/TQLC, trong đó có TĐ.9 rời Quảng Trị di chuyển về Đại
Lộc, Thượng Đức để thay thế LĐ.3 Nhẩy Dù. Tôi chưa kịp xin đổi về
TĐQY th́ ngày 18/3/1975, LĐ.258/TQLC cũng được lệnh di chuyển từ Mỹ
Thủy đến đèo Phước Tường để thay thế cho LĐ.2 ND, thế là tôi có mặt
trên đèo và đă nghe đă thấy tất cả những ǵ xẩy ra sau đó trên QL1,
v́ đèo Phước Tường nằm trên QL1, phía Nam Huế và phía Bắc đèo Hải
Vân. Từ ngày 19/3/1975 đến ngày 23/3/1975, dân chúng Quảng Trị, Huế đổ về Đà Nẵng, họ dùng đủ mọi phương tiện, từ xe hơi, xe ba bánh, xe đạp và cả đi bộ nữa, ḍng người kinh hoàng sợ VC đă chen chúc nhau trên QL1 ngày cũng như đêm, nhiều người quá mệt mỏi ngă gục trên đường liền bị xe sau cán qua! QĐ.I đă không làm bất cứ một cái ǵ để giúp đỡ họ, chẳng thấy một ông lớn nào lên đài phát thanh hay bay trên trời để hướng dẫn hoặc trấn an dân chúng! Dân đi th́ đặc công, du kích VC cũng giả dạng tỵ nạn đi theo, không thấy QĐ.I có biện pháp nào để thanh lọc chúng. Tôi tự hỏi đă có bao nhiêu tiểu đoàn đặc công VC lọt vào Đà Nẵng một cách hợp pháp? Ngày 23/3/75, ḍng người tỵ nạn đột nhiên chấm dứt, một số người bị thương v́ đạn AK của VC được mang đến cho chúng tôi điều trị. Theo lời kể lại của các nạn nhân th́ một toán VC đă lập một cái chốt gần cầu Nong, xả súng bắn vào đoàn người di tản để ngăn chặn lưu thông trên đoạn đường này. Tối 23/3/75, đài phát thanh VC loan báo chúng đă “diệt gọn” LĐ.258 và LĐ15 BDQ và chúng đang kiểm soát QL1 từ đèo Phước Tường cho đến Huế (?) Sáng ngày 24/3/75, tôi đi theo xe cứu thương để cấp cứu một anh Tr/Sĩ BĐQ, anh bị trúng đạn vào vai phải, gặp tôi anh nói: _ “Thiệt tức muốn chết được ông thầy, tôi canh me tụi nó từ chiều hôm qua, ai ngờ nó làm tôi trước, v́ nó có súng gắn ống nhắm, nếu tôi có cây 75 ly th́ hốt trọn ổ tụi nó rồi”. Tôi an ủi rồi băng bó cho anh thương binh xong rồi sai y tá đưa anh về đèo Phước Tường để khâu lại vết thương. Anh Tr/Uy BĐQ có vẻ lo lắng cho đệ tử nhưng tôi bảo anh an tâm, v́ vết thương của tr/sĩ không nguy hiểm, nhân tiện tôi hỏi anh về t́nh h́nh tại cầu Nong th́ anh cho biết: _ “Vẫn yên tĩnh, ngoại trừ cái chốt bắn sẻ cản trở lưu thông, chặn đồng bào di tản, tôi đang chờ trung đội súng nặng đến tăng cường để dẹp cái chốt này.” Đoạn QL1 từ cầu Nong đến chân đèo Hải Vân là con đường huyết mạch và duy nhất để tiếp tế tiếp viện và rút quân cho các đơn vị phía Bắc, mất đoạn đường này có nghĩa là các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị và Huế sẽ bị cô lập. Tối hôm trước, 23/3/75 VC đă loan tin láo khoét là chiếm được đoạn đường này với mục đích làm hoang mang tinh thần chiến đấu của các đơn vị này, vậy mà QĐ.I đă không cải chính để trấn an tinh thần binh sĩ!
Từ ngày
19/3/75, quân CSBV đă bám sát LĐ.258, tiền sát viên của chúng trà
trộn vào dân tỵ nạn đến gần quân ta nên chúng điều chỉnh pháo binh
rất chính xác, đă có vài trái 130 ly rơi vào sân trực thăng phía sau
ĐĐ/QY. Lữ đoàn cho mở những cuộc hành quân đẩy lui địch về phía Tây
cách QL1 ba, bốn km. ĐĐ/QY Lữ Đoàn dựng một cái lều lớn trên băi
trực thăng để làm trạm cứu thương, tôi được chỉ định làm việc tại
đây. Trưa ngày 24/3/75, địch bắt đầu pháo nhiều hơn, chúng pháo từ
hai ba vị trí khác nhau ở phía Tây, đạn rơi chung quanh vị trí Lữ
Đoàn rồi kéo từ từ lại gần, cường độ khoảng ba bốn trái một phút.
Chiều 24/3/75 tôi nghe nhiều tiếng súng lớn nhỏ từ phía cầu Nong dội
về, tôi biết BĐQ đang tấn công nhổ cái chốt bắn sẻ. Một lúc sau y tá
mang về cho tôi 2 thương binh BĐQ, cả 2 anh đều bị bắn bên vai phải
(có lẽ tên bắn sẻ là tay mơ, quên điều chỉnh độ dạt của khẩu súng
nên hắn nhắm đầu mà cả 3 nạn nhân lại bị trúng vai phải) và các anh
cho biết tên bắn sẻ đă bị hạ, bọn c̣n lại bỏ chạy vào rừng phía Tây,
BĐQ đă nhổ xong cái chốt trên cầu Nong, địch không c̣n, như vậy QL1
đă an toàn trở lại từ chiều ngày 24/3/75.
V́ lều cứu
thương ở trên một vị trí trống trải lại không có bao cát che chắn
xung quanh nên tôi đành cho đặt cáng thương binh dưới đất và chúng
tôi cấp cứu họ trong tư thế ngồi.
Lúc 2 giờ sáng
25/3/1975, tôi nhận được một thương binh là thiếu úy TQLC khá ĺ,
anh bị bắn vào vai trái, sau khi y tá lau sạch, tôi chích thuốc tê
vào xung quanh vết thương rồi dùng kim chọc vào theo chiều sâu vết
thương, tôi định được vị trí của miểng đạn, v́ biết chung quanh
miểng đạn không có mạch máu và dây thần kinh nào quan trọng nên tôi
dùng kẹp mổ thọc vào vết thương để kẹp lấy mảnh đạn, với sự giúp đỡ
của y tá, tôi dùng dao mổ cắt những sợi thịt vướng vào cạnh của
miểng đạn rồi lựa thế kéo nó ra. Mảnh đạn lớn hơn đốt ngón tay, tôi
gói cẩn thận tặng lại anh để sau này “thiếu úy tặng cho người yêu”
(lưu ư: đây chỉ là một lối mổ dă chiến ngoài mặt trận, các bạn sinh
viên y khoa nếu có đọc đoạn này xin đừng làm như tôi). _ “Bác sĩ cho tôi trở lại đơn vị được chưa?” _ “Cần phải dưỡng thương cho vết mổ kín miệng, ông về đơn vị rồi nhiễm trùng, xưng mủ, đứt chỉ khâu lúc đó ông quay trở lại càng vất vả cho chúng tôi thêm. Nhưng sao thiếu úy lại mong trở lại chiến đấu ngay vậy?” Anh vui miệng kể cho tôi nghe chi tiết của trận đánh rồi kết luận:
_ “Quân chính
quy CSBV bây giờ không thiện chiến như năm 1972, bọn này ngờ nghệch
chỉ biết dàn hàng ngang xông tới như lũ say thuốc nên lính ḿnh quạt
chúng thật đă tay, khi thấy vài đồng bọn ngă xuống là chúng đi thụt
lùi. Những dịp này mà không có mặt ở đơn vị để đ̣i nợ chúng th́ thật
uổng”. _ “Ḿnh sẽ bỏ nơi đây để rút về Đà Nẵng trong ṿng một giờ nữa”! Tôi kinh ngạc hỏi: _ “Lệnh của ai vậy thưa trung tá?”. Ông nói: _ “Đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh và ông cho lệnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân phải thi hành v́ TQLC ḿnh đang tăng phái cho QĐ.I”. Tôi thắc mắc: _ “Vậy th́ số phận Lữ Đoàn 147/TQLC và các đơn vị ở phía Bắc sẽ ra sao một khi ḿnh bỏ vị trí trọng yếu này?”. Trung Tá Lượm thở dài như không muốn nghe tôi hỏi, rồi ông buồn rầu nói: _ “Giờ này tôi không thể cho anh biết được, tôi đâu muốn bỏ chỗ này, ḿnh dư sức giữ nó thêm vài tuần nữa mà, nhưng lệnh QĐ th́ ḿnh phải thi hành”. Chợt thấy bác sĩ Duy bước ra khỏi hầm trú ẩn, Tr/Tá Lượm nói: _ “Đại Úy Quận Ban 2 LĐ vừa cho tôi biết vài điều về ông BS mới, những điều tôi vừa nói với BS, chỉ một ḿnh BS biết thôi”. Thấy ông gọi tôi bằng BS nên tôi biết đây là chuyện hệ trọng nên vội đáp: _ “Tôi hiểu ư Trung Tá”. Tôi đau đớn suy nghĩ, anh em chúng tôi đă đổ xương máu để giữ cứ điểm này, chúng tôi đang chiến thắng, xác địch quân vẫn chưa lạnh, tiếng súng truy đuổi địch vẫn đang nổ ṛn ră, chúng tôi chưa kịp thưởng thức vị ngọt chiến thắng th́ đă bị nếm vị cay chua của chiến bại! Bất giác tôi cảm thấy cay mắt, và v́ không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt cấp chỉ huy, tôi vội đưa tay chào Trung Tá Lượm, ông bắt tay tôi thật lâu và thật chặt, đôi mắt ông thật buồn và long lanh ngấn lệ dưới ánh sáng hỏa châu, ông cúi đầu đi chậm chạp về phía BCH/Lữ Đoàn. Thật không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp ông, sau 30/4/75 ông đi tù và đă bị CS sát hại bằng cách đẩy ông vào chảo nước sôi, v́ ông đă ví chúng như những cái máy phát thanh, vắn nút “on” lên th́ đứa nào cũng nói một giọng điệu. Xin vĩnh biệt Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm, vị TĐT giầu kinh nghiệm và tài giỏi của tôi. Tôi trở lại trạm cứu thương, phân loại thương binh và phân chia nhiệm vụ cho các y tá, sau đó trở về hầm trú ẩn và tôi mới thấy mệt mỏi, căng thẳng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi thức trắng đêm để cứu chữa thương binh, lúc c̣n lội theo TĐ.9/TQLC, tôi đă làm việc này nhiều lần, nhưng là làm việc trong công sự chắc chắn, được đệ tử bảo vệ và tiếp sức bằng những ca café sữa nóng, điếu thuốc thơm và sau trận đánh, khi thương binh đă được tản thương, thầy tṛ tôi cùng các sĩ quan tham mưu tiểu đoàn quây quân bên ấm trà điếu thuốc, luận bàn về những kinh nghiệm. Nghĩ lại trận đánh vừa qua, có lẽ thương binh, các y tá và tôi là những người phơi ḿnh dưới pháo địch, không hầm trú ẩn, không bao cát bảo vệ, cũng may là tất cả chúng tôi được b́nh yên. Tôi tự nhủ nếu sau này tôi làm cấp chỉ huy th́ sẽ không bao giờ phạm vào những thiếu sót này. Trong hơn một tuần lễ có mặt tại Phước Tường, tôi có cảm tưởng như QĐ.I đă quên chúng tôi! Từ việc QĐ đă bỏ rơi đám người di tản, không lập các trạm y tế và an ninh trên QL1 để giúp đỡ những người kiệt sức và thanh lọc những toán đặc công VC, không cải chính tin vịt do VC tung ra để trấn an binh sĩ, không có một ông lớn nào tới thị sát chiến trường, không có một máy bay nào bay trên vùng trời này và nay ra lệnh bỏ đoạn đường này, khúc xương cổ của QĐ.1, đây có phải là một bản án tử h́nh cho QĐI.Tiền Phương? Sáng 25/3/1975 lúc 5 giờ, bác sĩ đại đội trưởng ĐĐQY đi họp về và chính thức thông báo lệnh bỏ Phước Tường, tôi được chỉ định đi bộ với một thành phần của BCH/LĐ, BS ĐĐT và BS Duy th́ đi bằng GMC cùng với thương binh, c̣n bác sĩ Nhi th́ đă rời Lữ Đoàn từ hồi nào không ai biết! Tôi chạy về hầm trú ẩn, ăn vội mấy muỗng cơm gạo sấy c̣n lại từ hôm trước, đổ đầy hai bi-đông nước, đeo dây ba chạc, kiểm soát lại khẩu súng ngắn, nạp một viên vào ṇng rồi khóa an toàn, ba-lô, nón sắt, áo giáp, túi cứu thương, tôi xuống đồi và sát nhập vào toán TQLC đang di chuyển trên QL1. Con đường này tôi đă đi lại nhiều lần, hôm nay là lần cuồi cùng nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi bộ trên đó, thật là một kỷ niệm khó quên. Qua khỏi đỉnh đèo th́ một cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt tôi: nền trời xanh nhạt điểm thêm mấy sợi mây trắng hồng của buổi b́nh minh, hai ngọn đồi Bạch Mă màu xanh đậm sừng sững phía Tây QL1. Dưới chân đồi, uốn éo giữa những mảng ruộng màu xanh lá mạ trải dài tới tận chân trời là sông Truồi. Sông Truồi nhận phụ lưu của sông Đá Bạc, nước chẩy đôi ḍng phản chiếu ánh b́nh minh như môt dải lụa trắng. Phía Đông QL1 biển xanh bát ngát, sóng gọi ŕ rào, lác đác dưới chân đèo một vài thôn xóm vẫn c̣n ngủ say bên lũy tre xanh. Trong cái yên lặng của buổi chớm b́nh minh, một vài tiếng gà gáy sáng vọng về. Với phong thủy như vậy chẳng trách miền Trung có nhiều nhân tài, thiên thần cũng lắm mà ác quỷ cũng nhiều và những giai nhân tuyệt sắc làm nghiêng thành đổ nước. Đại đội bảo vệ BCH/LĐ dàn đội h́nh tác chiến, tiền vệ hậu vệ và nhất là hai cánh phải trái đi sâu vào hai bên đường, những sĩ quan tham mưu và binh lính LĐ đi ở giữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi đă đến cầu Truồi, cây cầu xinh đẹp này đă bị đơn vị canh giữ phá hủy sáng nay khiến gây trở ngại không ít cho những toán quân đi sau. Tôi lội qua sông Truồi, nước chỉ đến đầu gối và trong như lọc, qua khỏi cầu Truồi chừng vài km, tôi gặp Thiếu Tá Trần Quang Duật, TĐP/TĐ.16/TQLC, anh đang ngồi trên mũi xe jeep, để đầu trần, nón sắt bên hông, tay cầm bản đồ, tay kia cầm ống liên hợp máy C25, đang liên lạc với ai đó ở xa . Khi cuộc điện đàm đă xong, v́ là bạn cùng lớp thời trung học Chu Văn An nên tôi đến bên Duật hỏi: _ “Duật, mày làm ǵ ở đây mà để đầu trần không sợ bể “gáo dừa” sao?” _ “Tao đang chờ tụi mày”. Rồi anh chỉ tay về phía rừng dưới chân đồi Bạch Mă nói tiếp: _ “Cho ăn kẹo tụi nó cũng không dám bắn, lính cánh B* của tao đang phục ở trong đó, cũng mong tụi nó xuất hiện để hốt gọn, nhưng h́nh như tụi “con nít” này cố tránh TQLC mà chỉ bám theo đuôi, nhiều lúc tức thấy mẹ”. (* mỗi TĐ TQLC có quân số từ 700-1000 và thường chia làm 2 cánh khi đi hành quân, cánh A theo TĐT, cánh B đi theo TĐP) Duật móc bao thuốc Capstan đầu lọc đưa tôi một diếu, hai đứa hút thuốc, nhả khói gói bay về hướng Bắc, chúng tôi nh́n theo, bất giác tôi hỏi Duật: _ “Mày nghĩ Lữ Đoàn 147/TQLC rồi sẽ ra sao, lui về bằng đường nào?” Duật cười nhạt: _ “Tao làm sao biết được mưu cao của mấy ông tướng trong QĐ, nhưng tao nghĩ LĐ.147 sẽ gặp ngàn vạn khó khăn, nếu không có KQ, HQ và PB yểm trợ th́ sẽ có thể từ chết tới bị thương”! Tôi chán nản vứt thuốc đang hút dở xuống, lấy gót bốt-đờ-sô di di, nói:
_ “Thôi tao
đi, mày ở lại, cẩn thận”. _ “Trông mày như thương binh, lau những vết máu trên mặt và cổ đi” _ “Máu thương binh tao không muốn lau, đang đánh mà bắt phải lui th́ tao sợ c̣n phải lau nước mắt nữa ḱa”. Khoảng 6 giờ chiều 25/3/1975, chúng tôi đến chân đèo Hải Vân, đây là điểm hẹn của LĐ.258 và lúc này tôi cũng được biết LĐ.15BĐQ ở phía Bắc đèo Phước Tường cũng đă rút quân an toàn phía sau chúng tôi. V́ c̣n phải chờ những toán quân sau nên tôi vào quán nước bên đường gọi một xị rượu đế để giải sầu, trong lúc đang uống, tôi chợt thấy một thương binh TQLC chống nạng đứng cô đơn bên kia đường, tôi nghĩ đến Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, một thi sĩ nổi danh đời nhà Nguyễn và là chú của vua Tự Đức, khoảng 150 năm về trước, ông đă có mặt tại nơi đây và nh́n thấy một người lính của cụ Nguyễn Tri Phương bị thương khi đánh nhau với quân Pháp tại Đà Nẵng, đang chống gậy khấp khểnh vượt đèo Hải Vân để về Huế, ông đă xuất khẩu làm một bài thơ tuyệt tác để lại cho hậu thế:
Tàn Tốt:
Tôi mời anh
thương binh bên kia đường vào quán, khi anh ngồi vào bàn cùng uống
rượu với tôi th́ mới biết anh thuộc TĐ.1/TQLC và là một trong những
thương binh tôi cấp cứu tối hôm qua. _ “Nhằm ǵ vết mổ đó BS, tôi bị thương tay trái c̣n tay phải vẫn bắn được mà”. Tôi biết anh bị thương khá nặng cần phải tĩnh dưỡng hơn tuần lễ nên ngay sau khi mổ xong anh đ̣i trở lại đơn vị nhưng tôi đă không cho, nào ngờ anh căi lệnh bác sĩ điều trị và chuồn về đơn vị để tiếp tục chiến đấu. Xin khâm phục tinh thần chiến đấu của anh em TQLC.
Tôi thầm nghĩ
Trung Tá Huỳnh Văn Lượm đă quá cẩn thận khi cho cả một trung đội bảo
vệ thương binh và tôi, nhưng tôi đă lầm, khi gần đến thành phố, tôi
đă thấy khói lửa bốc lên. Khi vào trong thành phố th́ cảnh tượng tết
Mậu Thân tái xuất hiện trước mắt tôi, nhà cháy, xe dân sự cháy, xe
nhà binh cháy, thỉnh thoảng những tiếng nổ lớn phát ra từ những đám
cháy làm ngọn lửa phụt lên cao. Thành phố này đang chết! Không bóng người dân, không cảnh sát, không quân cảnh, giờ này họ ở đâu? Đi thêm vài cây số nữa, một cảnh thương tâm hiện ra, những người dân tỵ nạn Trị-Thiên nheo nhóc nằm ngồi đầy hai bên đường, không chăn, không chiếu, chỉ c̣n những cặp mắt đă cạn khô nước dương lên nh́n chúng tôi! Năm 1972, mùa Hè Đỏ Lửa tôi đă có mặt tại QKI, trong Liên Đoàn 71 QY, t́nh trạng ban đầu cũng như vậy, nhưng từ khi Tướng Ngô Quang Trưởng ra nhậm chức TLQK, ông đă ra lệnh cho lực lượng an ninh, cảnh sát bắt nhốt tất cả những tên giả dạng thường dân, sinh viên học sinh để sách động quần chúng, ông ra lệnh sử bắn những tên du kích, đặc công cải trang làm lính giă ngũ để phá rối cướp bóc. Ông cho lập các trại tạm trú để dân tỵ nạn có nơi che mưa nắng, có cơm ăn áo mặc, có bác sĩ săn sóc sức khỏe, v́ vậy t́nh h́nh mau chóng yên tĩnh trở lại và các binh sĩ yên tâm, tiếp tục chiến đấu mang lại chiến thắng vẻ vang cho QKI. Nhưng giờ này, 25/3/1975, ông và các phụ tá của ông ở đâu? Tại sao không làm những việc cần thiết đó như các ông đă làm năm 1972. Trong lúc binh sĩ vẫn vững tay súng ngoài mặt trận mà quư ông để hậu phương tang thương như thế th́ c̣n đâu tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi! Chúng tôi đến TYV Duy Tân lúc 9 giờ đêm, cổng chính của TYV không có đèn và cũng không có lính gác, tuy nhiên pḥng nhận bệnh c̣n có ánh đèn, nh́n kỹ tôi thấy mấy quân y tá đang cặm cụi làm việc. Tại đây, trong ánh đèn vàng tại cửa pḥng nhận bệnh, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng của chúng tôi, anh hiện là trưởng khu giải phẫu của TYV, nhưng v́ đa số các y sĩ đă bỏ đi nên anh phải đảm trách thêm công tác nhận bệnh, anh hứa sẽ săn sóc cho thương binh của tôi. Khi tôi tỏ ư bất b́nh về các y sĩ bỏ đi, anh Lương nói: _ “Không thể trách họ được, họ là những y sĩ bệnh viện, không một tấc sắt trong tay, không có binh sĩ bảo vệ như y sĩ tiền tuyến, thành phố bây giờ đầy đặc công VC và giặc cướp, QĐI th́ chẳng có quân lệnh ǵ để đối phó nên các y sĩ họ .!” Anh bỏ ngang câu nói “họ..” rồi chợt vui trở lại với tôi: _ “TQLC các cậu đă về, tôi tin tưởng t́nh h́nh sẽ khá hơn”. Nghe anh nói tôi bỗng thấy một nỗi buồn và cô đơn dâng lên, trong thế trận có tính cách chiến lược này, sự thắng bại không nằm trong tay của những người lính ngoài mặt trận, quanh năm chỉ có gạo sấy với cá khô mục như chúng tôi mà ở trong ư chí quyết chiến quyết thắng của những ông tướng ngồi trong pḥng có gắn máy lạnh tại QKI, Bộ TTM và Dinh Độc Lập. Những sự việc tôi đă quan sát từ một tuần lễ nay cho phép tôi tiên đoán sự sụp đổ của QKI, bất giác hai hàng nước mắt rơi trên má, vị mặn và tanh của máu và nước mắt kéo tôi về thực tế, tôi đứng nghiêm, đưa tay chào vị Y Sĩ quân đội đúng nghĩa và từ giă ANH để trở về với đồng đội mà không ngờ đây là lần đầu và cũng là lần cuối cùng tôi gặp ANH, niên trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương! V́ sau khi CSBV vào Đà Nẵng, chúng đuổi các thương binh ra khỏi TYV, bắt các y sĩ vào trại tù cải tạo và anh Lương đă tự sát để phản đối chính sách tù đầy dă man vô nhân đạo của chúng!
Khi công tác
tải thương hoàn tất vào lúc 9 giờ 30 đêm, qua máy C25, tôi nhận được
lệnh của Tiểu Đoàn QY/TQLC phải tŕnh diện TĐ ngay lập tức. Tôi đến
BCH/SĐ/TQLC đang đóng tại căn cứ Non Nước vào lúc 10 giờ đêm. Căn cứ
được pḥng thủ cẩn thận, đèn đuốc sáng rực, BCH/TĐ/QY nằm trong một
cái hangar lớn sau cổng chính phía tay phải, tại đây tôi gặp hầu hết
các Y Sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, họ cho biết v́ SĐ không
có phương tiện chở thương binh về Thủ Đức nên họ phải ra đây để điều
trị tại chỗ, tôi nh́n vào trong hangar, có đến năm sáu trăm giường
bệnh đầy thương binh! Tôi đến tŕnh diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn
Thế, TĐT/TĐQY sau đó. _ “Toa bị thương hả, sao máu đầy người thế này?” _ “Không, đấy là máu thương binh nhưng tôi chưa kịp thay quân phục”. Y Sĩ Trung Tá không chào lại theo lối nhà binh mà anh nắm tay tôi thật chặt, tay kia để lên vai tôi vỗ nhè nhẹ, tôi cảm nhận được tấm ḷng đầy t́nh đồng đội, t́nh anh em của người chỉ huy, nó có sức mạnh hơn ngàn lời nói hay huy chương lúc này, anh chỉ cái ghế đối diện, khi cả hai cùng ngồi, anh mệt mỏi nói: _ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang kẹt tại băi biển Thuận An, v́ HQ không vào đón, ngày mai SĐ sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo Hải Vân để tiếp cứu anh em ḿnh, nhiệm vụ của toa là chỉ huy một toán quân y tá TQLC và 5 xe cứu thương do Liên Đoàn 71QY tăng phái, mọi tiếp liệu và lương thực th́ Đại Úy Sanh, sĩ quan tiếp liệu đă lo xong”. Tôi nhận lệnh của anh Thế với tâm trạng hoang mang, nửa mừng nửa lo. Hoang mang v́ mới sáng nhận lệnh rút lui của ông tướng TL QK, bây giờ lại nhận lệnh của ông Tướng khác tiến trở lại, không biết chuyện ǵ đă xẩy ra trong nội bộ của các ông! Nhưng rồi tôi vui v́ được tham dự một cuộc hành quân giải cứu chính anh em ḿnh, nhưng cũng hơi lo, v́ tôi biết địa thế phiá Bắc đèo Hải Vân rất hiểm trở, đơn vị tấn công sẽ gặp nhiều thiệt hại, không biết một ḿnh tôi có cáng đáng nổi nhiệm vụ được giao phó hay không?
Đà Nẵng ngày 26 và 27 tháng 3 năm 1975. Đến 6 giờ 30 sáng 26/3/75 tôi báo cáo lên TĐQY là chúng tôi đă sẵn sàng, tôi được lệnh chờ tại chỗ, tới 11 giờ th́ lệnh hành quân được hủy bỏ mà tôi không biết lư do, nhưng toán quân y của tôi th́ được lệnh ra bến thương cảng Đà Nẵng để đón Lữ đoàn 147/TQLC. Khoảng 12 giờ, tôi thấy hai chiếc tàu “há mồm” cập bến, hai chiếc tàu này chở một trung đoàn thuộc SĐ.2/BB từ Chu Lai về Đà Nẵng, quân số của họ chỉ c̣n lại chừng ba đến bốn trăm người, quân phục nhầu nát, khi đi qua cầu tầu, một số anh vứt súng M16 của họ xuống biển! Đi sau cùng là hai thiếu tá bị thương nơi đầu, họ d́u nhau xuống cầu tầu, tôi và đệ tử giúp hai ông một tay và đề nghị cấp cứu cho họ nhưng cả hai ông cám ơn v́ phải di chuyển ngay với binh sĩ của họ. Khâm phục trước thái độ huynh đệ chi binh này, tôi chào hai ông và chúc b́nh an. Nghe tôi chúc, một trong hai ông đưa tay bắt và như muốn thanh minh: _ “Đă đánh đấm ǵ đâu, đang đi hành quân th́ có lệnh rút, mà lệnh rút không rơ ràng nên anh em chúng tôi rất bực ḿnh”. Vào lúc 2 giờ chiều th́ một chiếc LCU từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng v́ thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá d́u xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại băi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước. Theo Bác Sĩ Bùi Văn Rậu ĐĐT/QY/LĐ.147 th́ ông dược sĩ Lữ Đoàn và 4 ông y sĩ TĐ được ghi nhận là mất tích tại Thuận An. Buổi chiều, sau khi tải thương xong, tôi hỏi thăm t́nh h́nh, BS Khoa nói vắn tắt: _ “Khi TQLC ra đến băi biển Thuận An vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975 th́ được lệnh dừng quân để tàu Hải Quân vào đón, nhưng chờ đến 6 giờ chiều mà không có một chiếc tầu nào vào, LĐ 147 phải dàn đội h́nh pḥng thủ để tiếp tục chờ tầu HQ th́ VC tấn công, loạt đạn đầu tiên có 4 TQLC tử thương, anh em mang xác họ đến ĐĐQY, nhưng sau đó th́ súng nổ khắp nơi, bị thương và tử thương rất nhiều nên chết ở đâu th́ chôn ở đó. Sáng ngày 26/3/1975 khoảng hơn 8 giờ khi một chiếc LCU vào đón thương binh và BCH/LĐ thi 4 tử sĩ được mang lên tàu, nhưng xác của Đ/Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/TĐ.4 bị rơi xuống biển nên chỉ cỏn 3.” Tôi được giao nhiệm vụ săn sóc 20 thương binh thuộc LĐ.147, trong đó có một chuẩn úy mới ra trường, trước kia anh là giáo sư trung học, anh bị bắn vào đùi, vết thương không nặng lắm, sau khi lau chùi băng bó xong tôi ngồi lại nghe anh kể chi tiết cuộc rút quân của LĐ.147/TQLC, sau đó anh phẫn uất vừa khóc vừa nói: _ “Bác sĩ biết không, cả một lữ đoàn bị lùa vào cái rọ, một băi cát trống, tứ bề là nước mênh mông, không có lối thoát, không có địa thế ẩn núp, làm bia cho CSBV bắn, như bị trói tay dẫn ra pháp trường cát, mà người đưa LĐ.147 này ra pháp trường cát lại những vị chỉ huy cao cấp của Quân Đội! Họ thuộc phe nào?” Nhận thấy thương binh này quá xúc động và phẫn uất, dù chỉ là cấp chỉ huy trung đội, nhưng đă có một cái nh́n và nhận xét khá chính xác và chân thật, tôi vỗ vai anh an ủi và nói y tá chích cho anh một mũi thuốc an thần để anh nghỉ ngơi. Sáng 27/3/1975, tin ṭan bộ lực lượng QĐ.I Tiền Phương dưới quyền chỉ huy của Tướng Lâm Quang Thi* bị tan ră, trong đó có LĐ.147/TQLC, như một tiếng sét ngang tai, thoạt đầu không ai tin, vẫn cho rằng CSBV tung ra như đă từng rêu rao trên đài phát thanh tối 23/3 là chúng đă “diệt gọn LĐ.258 ngụy” để làm lung lay tinh thần chúng tôi. Không thể được, bởi v́ lực lượng QĐ.I/TP gồm những đơn vị thiện chiến của QLVNCH đó là: SĐ.1/BB gồm có 4 trung đoàn và Đại Đội Hắc Báo, một sư đoàn nổi danh đă bảo vệ vùng hỏa tuyến và luôn luôn chiến thắng. Đó là Lữ Đoàn 147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến tinh nhuệ cùng với Pháo Binh và ĐĐ Viễn Thám, một đạo quân chưa bao giờ biết lui. Đó là LĐ.1 Thiết Kỵ với chiến xa M48 tối tân đă từng gây kinh hoàng cho 8 SĐ/CSBV năm 1972. Đó là LĐ/BĐQ chỉ biết “sát Cộng” và c̣n bao tiểu đoàn pháo binh nặng nhẹ cùng các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân v.v.. Cỏn về vũ khí đạn dược ư? Chỉ riêng kho đạn pháo binh tiền phương của TQLC cũng đă có 100.000 trái đại bác 105 ly. Với một lực lượng như trên, giữ vững tay súng và y chí từ trên xuống dưới, cộng thêm hỏa lực yểm trợ của SĐ.1KQ và Hải Pháo vùng I Duyên Hải th́ CSBV sẽ không thể làm ǵ được họ. Khi chúng tôi nhận được lệnh bỏ QL1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng th́ chúng tôi đă tiên đoán được các lực lượng tiền phương QĐ.I sẽ gặp muôn bàn khó khăn và nguy hiểm, gần như họ bị dồn vào tuyệt lộ! Nhưng không lư do ǵ khiến chỉ trong 2 ngày mà lực lượng Tiền Phương bị tan ră! Nhưng tin tức dồn dập đưa về, bắt chúng tôi phải tin và đó đúng là sự thật! Chúng tôi đau đớn cho đồng đội, tức giận và nghi ngờ khả năng của các cấp chỉ huy của QĐ.I, của bộ TTM, của Dinh Độc Lập, không biết v́ nguyên nhân nào, v́ bị áp lực nào hay v́ quyền lợi và mạng sống bản nhân, phe nhóm mà họ nỡ bỏ rơi để quân CSBV tàn sát một đạo quân tinh nhuệ đă, đang hy sinh để bảo vệ đất nước? Bây giờ th́ đến thân phận chúng tôi, không biết rồi sẽ ra sao? Chúng tôi chỉ c̣n biết trông cậy vào nhau, những đồng đội của binh chủng TQLC. Chiều ngày 27/3/1975, tôi lên TTHQ/SĐ để t́m hiểu thêm tin tức th́ gặp Thiếu Tá Trần Vệ, một bạn cũ, hiện anh là trung tâm trưởng TTHQ, anh buồn rầu cho biết QĐ.I TP của Tướng Lâm Quang Thi* đă thực sự tan vỡ, mấy hôm nay rồi không nhận được lệnh ǵ từ trên QĐ, và khi có việc gấp anh phải đích thân lên QĐ th́ chẳng c̣n thấy ai ở trên đó nữa! Ngoài ra tin cho biết Quảng Nam, Quảng Ngăi đă “thất thủ” (?) v́ SĐ.2/BB đă được lệnh rút khỏi nơi này mặc dù chưa bị CSBV tấn công, cuộc rút quân đă xảy ra trong hỗn loạn! Như vậy cho đến 27/3/1975, lănh thổ QKI chỉ c̣n thành phố Đà Nẵng! Tôi chán nản lo lắng, quay trở lại TĐQY.
Quảng Trị, Huế ngày 24,25,26,27/3/1975. _ “Đoạn QL1 này cho đến ngày 25/3/75 vẫn sử dụng được”.
Gần đây, tôi
được đọc một điện thư của Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn pḥng
của TT/TL/SĐTQLC, gửi cho một niên trưởng, nguyên văn như sau:
Ngoài ra, cũng
theo nguồn tin này, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đă gửi Đại Tá Quế
TMT/SĐTQLC qua BTL/HQ vùng I DH để đôn đốc HQ đón LĐ.147 trong
trường hợp Đại Tá Lương LĐT/LĐ.147 v́ lư do nào đó phải rút quân
bằng HQ. Với con mắt của một người lính chiến, dù là lính chuyên môn, chúng tôi tin tưởng lui binh theo QL1 sẽ bảo toàn được lực lượng tiền phương. Tại sao? Tuy cuộc hành quân lui binh bao giờ cũng khó khăn hơn hành quân tấn công, nhưng trong trường hợp này, QL1 vẫn nẳm trong tay ta và được bảo vệ bởi những đơn vị tinh nhuệ, địa thế dọc theo QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân quá quen thuộc với mọi cấp quân cán chính vùng I. Khởi đi Từ Dạ Lê, nơi có BTL/SĐ.1/BB và TTHL/SĐ, qua Phú Bài , Nong , Truồi , Lăng Cô , Hải Vân , Đà Nẵng. Ngoài ra, các đơn vị yểm trợ hỏa lực như Pháo Binh, Không Quân, Hải Quân vẫn c̣n đầy đủ, nhất là Hải Pháo, di động dọc theo bờ biển th́ có một xạ trường lư tưởng hơn bất cứ chiến trường nào khác. Một yếu tố quan trọng nữa là áp lực địch chưa có ǵ. Và giả dụ chúng có 2 hay 3 sư đoàn bám theo truy kích th́ vẫn không làm ǵ được với đoàn quân tinh nhuệ của QĐ.ITP, và chính trong giai đoạn này chúng mới là mồi ngon, là bia hứng đạn của những anh hùng Không Quân SĐ.1/KQ, những anh hùng Hải Pháo của HQ vùng I. Với tất cả những yếu tố đó, dù là kinh nghiệm của một người lính, chúng tôi cũng thấy dùng QL1 làm trục lui binh là hợp lư là khả thi. QL1 không phải và không bao giờ có thể giống như Liên Tỉnh Lộ 7 của QKII được. Vậy tại sao Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.I Lâm Quang Thi lại quyết định chọn lui binh bằng HQ tại băi biển Thuận An để toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐI của ông tan ră! Một vị tướng tiền phương tài ba có tất cả những lư do để ông chọn đường lối lui binh qua ngả Thuận An, xuôi Nam để về Đà Nẵng, mà yếu tố quyết định sống chết vẫn là cái CẦU PHAO tại cửa Tư Hiền. Dĩ nhiên ông và các phụ tá của ông biết những yếu tố cần có để thiết lập cầu phao, đặc biệt là Công Binh và HQ. Vậy mà nó không có! Đó là điều chúng tôi không thể hiểu nổi nên mới tâm sự với những đồng đội của tôi đă sống sót từ băi cát bờ biển Thuận An nhân dịp ông Tướng xuất bản cuốn “Hell In An Lộc”.
Trong hồi kư
“Ngày Tháng Không Quên: 8/3/75-30/4/75”, Đại Tá Nguyễn Thành Trí
TLP/SĐTQLC kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Tây-Bắc Huế, sau khi họp với Trung
Tướng Lâm Quang Thi, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm TL/SĐ.1BB, Đại Tá
Lê Ngọc Hy TMT/TP, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ TKT/Thừa Thiên cùng có nhận
định khó bảo vệ được Huế nên Tướng Thi đề nghị rút quân khỏi Huế lên
Tướng Trưởng như sau: Sau đó th́ Tướng Thi chỉ định Tướng Điềm và Đại Tá Hy bay trực thăng vào Đà Nẵng đệ tŕnh kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng, c̣n Đại Tá Nguyễn Thành Trí th́ thông báo ngay cho các đơn vị trực thuộc biết để chuẩn bị tinh thần, tổ chức gọn gàng và sẵn sàng thi hành khi có lệnh. Ông viết tiếp: _ “Khoảng 1730 giờ, Đại Tá Hy đáp trực thăng đến và trao cho tôi công điện mang tay. Ông nói thêm là công điện này xác nhận việc thi hành kế hoạch rút quân như đă bàn thảo khi trưa tại BCH Hải Quân. Tôi ra lệnh cho các đơn vị sẽ bắt đầu thi hành kế hoạch như đă thông báo vào lúc 1800 giờ. Suốt đêm theo dơi tùng cánh quân rút về mà ḷng se lại! Những người lính Mũ Xanh ấy đến giờ phút chót vẫn giữ vững tay súng, đẩy lui từng đợt xung phong của quân thù mưu toan lấn chiếm chia cắt. Chưa có vị trí nào bị mất trên hành lang sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi. Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị Huế. Nhưng giờ đây mọi người phải rút đi như những kẻ thua cuộc!”( TT2/TQLC trang 538). Cùng với ĐạiTá Tư Lệnh Phó SĐTQLC, các tiểu đoàn trưởng thuộc quyền như Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ.7, Thiếu Tá Phạm Văn Tiền TĐT/TĐ.5, các Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng như Cao Xuân Huy, Phan Văn Đuông, Toàn, Minh v.v.. đă ghi lại những đoạn đường chiến binh máu và nước mắt của các anh trong giai đoạn bị bắt buộc phải rút quân này. Các Tiểu Đoàn 3,4,5/TQLC, TĐ.2PB, Đại Đội Viễn Thám đang ở thế thượng phong đối đầu với các trung đoàn CSBV tại Quảng Trị th́ nhận được lệnh rút quân hỏa tốc về cửa Thuận An lúc 6 giờ chiều ngày 24/3/1975! Họ đoạn chiến với địch, rút ra QL1. Trở ngại thứ nhất là rút quân hỏa tốc trên đoạn đường dài hơn 30 km, không có phương tiện chuyên chở nên vũ khí nặng và lương thực phải phá hủy tại chỗ, chỉ c̣n đem theo vũ khí cá nhân! Trở ngại thứ hai là khi tới bến phà Tân Mỹ, những phà chở quân đă bị kéo sang bên kia bờ phá Tam Giang và bị phá hủy! Các chiến đỉnh của HQ và LCM của Quân Vận cũng đă bỏ đi! Tại đây một số anh em TQLC phải bỏ tiền túi thuê ghe gọ của dân để qua phá. Riêng TĐ.7/TQLC đóng tại Hương Điền, gần với Thuận An nên quân số và vũ khí được bảo toàn. Lúc 8 giờ sáng ngày 25/3/1975, tất cả lực lượng TQLC thuộc LĐ.147 đă tập trung đầy đủ tại băi biển Thuận An để chuẩn bị suôi Nam, đi về cửa Tư Hiền như lệnh của Tướng Tư Lệnh Tiền Phương.
Nhưng cuộc lui
binh của LĐ.147/TQLC đă không thực hiện được v́ 3 yếu tố “KHÔNG” sau
đây:
1/-Không có cầu phao! Thời điểm 10.30 sáng 25/3/1975 t́nh h́nh c̣n yên tĩnh, LĐ.147/TQLC dàn quân pḥng thủ trật tự để chờ tàu. Ngoài khơi một tàu lớn bỏ neo, người từ trong bờ c̣n trông rơ chữ HQ 801, như vậy khoảng cách không xa, ngoài ra c̣n 5 chiếc LCM chạy ṿng ṿng c̣n TQLC trên bờ th́ vẫn chờ, và chờ tới 5 giờ chiều mà vẫn không có tàu nào vào đón, và địch quân đă đến bao vây quân ta trên băi cát! Hơn 6 tiếng đồng hồ chờ đợi, nằm ôm súng ngắm tàu diễn hành và cũng là khoảng thời gian cần và đủ để địch đuổi kịp quân ta và dĩ nhiên băi đáp đă mất an ninh.
Theo hồi kư
“Can Trường Trong Chiến Bại”, Phó ĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại, TLHQ vùng I
Duyên Hải th́ trong các ngày 24,25,26/3/1975, ông đă thành lập Liên
Đoàn Đặc Nhiệm do Trung Tá Lê Thành Uyển chỉ huy. Liên Đoàn này gồm
có 8 chiến hạm và 4 chiến đỉnh để bảo vệ vùng biển Thuận An. Ngoài
ra tại đây ông c̣n có 4 LCU và 18 LCM8, cả hai là loại tàu đáy bẳng,
có thể vào sát bờ (LCU chở được 400 quân, LCM8 chở được 200). Và xin
nghe tướng Hồ Văn Kỳ Thoại giải thích lư do HQ không vào đón TQLC
được trong ngày 25/3 như sau:
Ông Tướng nói
th́ chúng tôi biết thế thôi! tuy nhiên cũng cám ơn Hải Quân là vào
sáng ngày 26/3/1975 đă có một chiếc LCU vào đón được BCH/LĐ.147, tử
sĩ và thương binh cùng một số TQLC. Rủi thay LCU này bị trúng hỏa
tiễn AT3 của VC khiến một số tử thương và bị thương, trong đó có Đại
Tá Lương bị thương vào chân, c̣n chiếc LCU thứ 2 th́ bị mắc cạn và
KHÔNG C̉N chiếc nào vào nữa. Cũng đúng thôi, theo lệnh hành quân,
tầu vào bờ đă trễ hơn một ngày, dư thời gian cho CSBV nhắm AT3 và đủ
mọi loại vũ khí vào TQLC và tàu HQ!
Trong hồi kư
“Can Trường Trong Chiến Bại”, PĐĐ Thoại không nói ǵ đến nỗ lực của
HQ về việc thiết lập cầu phao tại cửa Tư Hiền trong ngày 24/3/1975,
như Tướng Tư Lệnh TP đă nói trong lệnh hành quân mà ông chỉ nói đến
nỗ lực này trong ngày 26/3/1975! Quá trễ rồi! Ngoài ra PĐĐ có đề cập
đến một chi tiết khá lạ: trang 200 và 204 ông Tướng cho biết: Tướng
Thi và bộ Tham Mưu của ông khoảng 100 người lên soái hạm HQ5 vào
buổi trưa ngày 24/3/75, tại đây Tướng Thi ra lệnh cho Tr/Tá Uyển,
chỉ huy liên đoàn đặc nhiệm, bằng tiếng Mỹ: “Go South”. Nhưng không
được Tướng Thoại chấp Thuận. Lúc 4 giờ 20 chiều ngày 25/3/75, Tướng
Thi lên HQ715 để về Đà Nẵng!
2/Không có lực lượng bảo vệ băi biển Thuận An!
3/Không có KQ, HQ yểm trợ và tiếp tế khi bị bao vây! LĐ.147/TQLC hoàn toàn bị bỏ rơi trên băi biển, nước mênh mông mà không có một giọt nước để uống tương tự như có hỏa lực hùng hậu KQ, HQ mà phải đi lượm từng viên đạn M16 rơi trên băi cát để tự vệ và tự tử! Sự thật là vậy đó thưa quư vị Tư Lệnh Tiền Phương, TLKQ, TLHQ vùng I. Cho đến chiều ngày 26/3/1975, không c̣n đạn để tự vệ, họ đă “tiết kiệm” bằng cách chỉ dùng một trái lựu đạn M26 để mà tự sát tập thể! Và đă có nhiều cuộc tự sát tập thể như vậy! Ngoài khơi, trên cao làm sao quư vị nghe được những tiếng nổ này của M26! Sức cùng lực kiệt, tất cả những ǵ c̣n lại của LĐ.147/TQLC đă bị CSBV bắt trói sớm hơn! giống như Tổng Thống “một ngày” khi ông ra lệnh bàn giao QLVNCH cho CSBV! Những người lính TQLC đổ bao nhiêu xương máu và nước mắt nơi địa đầu giới tuyến, lính Tổng Trừ Bị bị sử dụng làm quân địa phương giữ đất cho QKI, th́ vào lúc 3 giờ sáng ngày 27/3/1975 đă bị tan hàng một một cách đau đớn không v́ địch quân mà v́ chính những người ..vắt chanh! Sự tan ră Lực Lượng Tiền Phương QĐ.I nói chung và LĐ.147/TQLC nói riêng là hậu quả tất yếu đưa đến QĐ.I phải bỏ Đà Nẵng vào sáng 29/3/1975. Thưa Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐI. Được biết trường đại học University of North Texas vừa xuất bản cuốn sách “Hell in An-Lộc” do chính ông viết bằng Anh Ngữ, cuốn sách nói về trận chiến An Lôc năm 1972. Tuy ông không chỉ huy hay có mặt tại chỗ, nhưng ông đă sưu tầm tất cả dữ kiện để viết “Hell in An Lộc”, để nói cho người Mỹ hiểu rơ về tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân Đội VNCH không như một số truyền thông phản chiến đă có định kiến sai lạc bất lợi cho chúng ta về cuộc chiến này. Cuốn sách “Hell In An Lộc” được nói đến nhiều nhưng cá nhân chúng tôi không dám có ư kiến khi tôi chẳng biết ǵ về trận chiến ở đó cả, nhưng chúng tôi đă có mặt, đổ máu và nước mắt từ Quảng Trị, Huế và chỉ rời Đà Nẵng vào 8 giờ sáng ngày 29/3/1975 tại băi biển NON NƯỚC nên chúng tôi mong ước Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I viết một cuốn sách về trận chiến do đích thân Trung Tướng chỉ huy, cuốn sách được viết bằng chữ quốc ngữ (Việt Nam) để những người lính chúng tôi, dù đă khuất hay sắp khuất đọc và biết được những khó khăn trong cuộc chiến tại đây đưa đến hậu quả cả một đoàn quân tinh nhuệ đứng khoanh tay, chịu trói! Thưa Trung Tướng Tiền Phương.
Với cái nh́n
hạn hẹp của một người lính về t́nh h́nh và địa thế th́ tôi cứ thắc
mắc cho tới ngày nay rằng tại sao: Sự thật nó là như thế đấy, bao nhiêu trực thăng đi đâu cả rồi thưa Tư Lệnh? Khốn nạn cho đến nỗi không c̣n một chiếc nào để tải thương và tiếp tế đạn được cho LĐ.147, tiếp tế cho anh em vài thùng gạo sấy để nhai th́ phải dùng đến trực thăng chỉ huy của Tư Lệnh TQLC! Và rồi cũng chỉ c̣n một chiếc trực thăng duy nhất của TL/SĐTQLC đi cấp cứu TL/SĐ.1/BB! Chuyện tưởng đùa mà có thật! Thưa Tư Lệnh Tiền Phương. Những thắc mắc nêu trên không phải của riêng cá nhân tôi mà của tất cả những quân sĩ dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đă nằm lại vĩnh viễn ở “Bờ Biển Thuận An, Pháp Trường Cát”! Của những quân nhân dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đă bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn để rồi những tên du kích VC mang dây kẽm gai đến cột chung họ lại với nhau! Tất cả chúng tôi mong ước được nghe Tư Lệnh giải thích hầu chia sẻ với Tư Lệnh những khó khăn mà Tư Lệnh gặp phải, cho dù những khó khăn đó đến từ bất cứ đâu. Quan trọng hơn nữa là lời giải thích của Tư Lệnh sẽ trả lại uy tín và danh dự cho tất cả các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đánh tan tin đồn của những kẻ vô trách nhiệm ở hậu phương rằng cấp chỉ huy ngoài mặt trận đă bỏ lính! Dầu sao đối với người Mỹ th́ dù Tư Lệnh có giải thích hay không th́ chuyện cũng đă thuộc về quá khứ, c̣n đối với các anh em cựu quân nhân chúng tôi th́ vẫn cần và rất cần uy tín của Tư Lệnh nói riêng và các Tư Lệnh khác nói chung v́ cuộc chiến cho Việt Nam Tự Do vẫn c̣n tiếp diễn, cuộc chiến c̣n th́ chúng tôi vẫn cần những cấp chỉ huy có uy tín.
Thay cho lời kết: Như vậy, tính từ 6 giờ chiều ngày 24/3/1975, khi các đơn vị TQLC bắt đầu rút khỏi Quảng Trị cho đến 6 giờ sáng ngày 29/3/1975 khi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng bơi ra tàu Hải Quân từ Trung Tâm Hành Quân TQLC trong căn cứ Non Nước Đà Nẵng, Quân Đoàn I đă bị tan ră trong ṿng 4 ngày rưỡi!
Về việc rút
quân này, lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, trước khi bơi ra tàu Hải
Quân, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă nói với Đại Tá Nguyễn Thành
Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC một câu đáng để chúng ta và hậu thế
suy ngẫm: |
|||
[_templates/thtqlcvn-footer.htm]
|