Những
bí mật được tiết lộ
Tú Gàn
“Lúc đầu
họ nói với tôi về ông Diệm. Ông ta tham nhũng và
ông ta phải bị giết. V́ thế, chúng ta đă
giết ông ta. Tất cả chúng ta đă họp lại
với nhau và xử dụng một bọn ác ôn côn đồ
đáng nguyền rủa để hạ sát ông ta. Bây
giờ chúng ta không có sự ổn định chính
trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
Trên đây là
lời tuyên bố của cựu Tổng Thống Lyndon B.
Johnson được ghi lại trong một cuốn băng
dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson
Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003 vừa qua.
Những đoạn băng này cho thấy khi chiến tranh
Việt Nam đang ở vào thời kỳ gay go nhất,
Tổng Thống Lyndon B. Johnson đă gặp khó khăn v́
sự chống đối của Quốc Hội. Ông
bị giằn vặt về sự thất bại trong
việc lănh đạo chiến tranh Việt Nam. Ông nói: “Tôi
không thể rút ra, tôi không thể chính là kiến trúc sư
của sự đầu hàng” (I can’t get out, I just
can’t be the architect of surrender)
Tài liệu này
được công bố sau 40 năm kể từ khi Hoa
Kỳ thuê một số tướng lănh Việt Nam làm
đảo chánh lật đổ và giết chết ông Ngô
Đ́nh Diệm, khởi đầu cho việc đưa quân
vào miền Nam Việt Nam.
NHỮNG TIẾT
LỘ MỚI
Tài liệu vừa
được công bố trên cho biết, vào ngày 1.2.1966,
Tổng Thống Johnson đă gọi điện thoại
cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay than phiền
về việc chính quyền Kennedy (lúc đó ông Johnson là
Phó Tổng Thống) và liên minh cánh tả của ông ta
ở Thượng Viện đă ủng hộ việc ông
ta đi vào cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không
ủng hộ ông trong việc tiệp tục cuộc
chiến đó. Ông nhắc lại chuyện chính quyền
Kennedy tổ chức giết ông Diệm để có
thể tham chiến ở Việt Nam:
“Ngài nhớ, lúc
đầu họ nói với tôi về Diệm. Ông ta tham nhũng
và ông ta phải bị giết. V́ thế, chúng ta đă
giết ông ta. Tất cả chúng ta đă họp lại
với nhau và xử dụng một bọn ác ôn côn đồ
đáng nguyễn rủa để hạ sát ông ta. Bây
giờ chúng ta không có sự ổn định chính
trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
(They started on me with
Diem. He was corrupt and he ought to be killed. So we killed him. We all got
together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him. Now, we’ve
really had no political stability [in South Vietnam] since then.)
Ít phút sau, trong
một cuộc nói chuyện với Tướng Maxwell D.
Taylor đang là Đại Sứ Hoa Kỳ ở Nam Việt
Nam, Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều
đó. Ông nói với Tướng Taylor: “Họ khởi
đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm,
bởi v́ ông ta không tốt. Chúng ta hăy, chúng ta hăy lật
đổ ông ta. Và chúng ta đă làm.” (They started out and
said, “We got to kill Diem, because he’s no damn good. Let’s, let’s
knock him off. And we did.)
Tướng Taylor
đồng ư: “Phải, sự việc đă khởi
đầu tất cả như thế. Đúng là sự
việc đă khởi đầu như thế.” (Yeah,
that’s where it all started. That’s exactly where it started!”)
Tổng Thống
Johnson giận dữ trả lời: “Và lúc đó tôi
đă van nài họ, ‘Xin vui ḷng đừng làm điều
đó’. Nhưng sự việc vẫn được
khởi sự. Và họ đă lật đổ ông ta.”
(“And I just pled with them at the time, 'Please, don't do it.' But that's
where it started. And they knocked him off.”)
Trong một bài dưới
nhan đề “What's Hidden in the LBJ Tapes. Johnson thought JFK was
responsible for the murder of Ngo Dinh Diem.” đăng trên
tuần san Weekly Standard ngày 29.9.2003, James Osen đă tŕnh bày
và phân tích đoạn băng này với kết luận
rằng Tổng Thống Kennedy phải chịu trách
nhiệm và cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm. Tác giả đă nhắc lại chuyện một
nhân viên CIA là Everette Howard Hunt đă làm các điện văn
giả để giúp Tổng Thống Nixon chứng minh
Tổng Thống Kennedy dính líu đến việc hạ sát
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
Người ta
nhớ lại hôm 19.6.1972, hai ngày sau khi vụ Watergate bùng
nổ, một nhân viên của Safemasters Company và một nhân
viên của Sở Mật Vụ (Secret Service) đă đột
nhập vào pḥng 522 của Ṭa Bạch Ốc, nơi
chứa những tài liệu của một người tên
là Everette Howard Hunt, một nhân viên CIA có nhiệm
vụ giúp Tổng Thống Nixon. Tại đây các nhân viên
điều tra đă khám phá ra hàng trăm điện văn
(cables) ghi lại các biến cố đưa đến
cuộc đảo chánh vào tháng 11 năm 1963 ở Nam
Việt Nam với kết quả là Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm và ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu bị
hạ sát. Các nhân viên điều tra cũng khám phá ra hai
điện văn giả của ông Diệm do Everette Howard
Hunt làm với ẩn ư nói rằng chính quyền của
Tổng Thống Kennedy và chính ông ta đă can dự vào
việc giết hai nhân vật này.
Khi các văn kiện
giả này được bạch hóa vào năm 1973,
nhiều người nghĩ rằng những điện văn
giả đó chứng tỏ Nixon và các tay chân bộ
hạ của ông ta không phải chỉ muốn thắng
cử và che lấp tội lỗi của họ, mà c̣n
muốn viết lại lịch sử chiến tranh Việt
Nam để làm thay đổi những suy nghĩ của
người Mỹ về cuộc chiến này.
Everette Howard Hunt sinh năm
1918, đă làm việc cho CIA từ 1949 đến 1970. Trước
đó, ông ta bị coi là một nghi can quan trọng trong
vụ giết Tổng Thống Kennedy vào ngày 22.11.1963, nhưng
không bị truy tố v́ “không đủ yếu tố
buộc tội”. Trong vụ đặt máy nghe lén nơi
họp của Đảng Dân Chủ, ông đă bị
phạt 8 năm tù.
James Osen cho rằng
Tổng Thống Nixon đă phải cho làm giả một tài
liệu có sẵn trong Ṭa Bạch Ốc mà ông không
biết.
Qua những lời phát
biểu của Tổng Thống Johnson nói trên, chúng tôi
thấy có hai vấn đề được đặt
ra: Vấn đề thứ nhất: Trách nhiệm
của chính quyền Kennedy trong vụ làm đảo chánh và
hạ sát Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Vấn
đề thứ hai: Trách nhiệm của “bọn ác ôn
côn đồ đáng nguyền rủa” trong việc
hạ sát một cách dă man Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu. Chúng tôi xin tŕnh bày qua hai
vấn đề này.
NHẬN DIỆN CÁC
CHÍNH PHẠM
Không phải đến
ngày 28.2.2003, khi Johson Library công bố cuốn băng nói trên,
chúng ta mới có thể xác quyết chính phủ Hoa Kỳ
đă đứng ra tổ chức cuộc đảo chánh
ngày 1.11.1963 và ra lệnh giết chết Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm và ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu.
Những văn kiện trao đổi giữa Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ và Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ
tại Sài G̣n trong thời gian từ tháng 8 đến tháng
11 năm 1963 cũng đủ để chứng minh điều
đó.
Cuốn hồi kư
của ông Robert S. McNamara, cựu Bộ Trưởng
Quốc Pḥng Hoa Kỳ, xuất bản năm 1995 cũng
đă xác định rất rơ Roger Hilsman Jr., Phụ
Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông
Vụ, Averell W. Harriman, Thứ Trưởng Ngoại
Giao, và Michael V. Forrestal, một thành viên tham mưu
(staffer) của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là
“kiến trúc sư” của cuộc đảo chánh
lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
Roger Hilsman
là một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao và
cố vần về chính sách Việt Nam. Năm 1961, ông
được Tổng Thống Kennedy bổ nhiệm Giám
Đốc Văn Pḥng T́nh Báo và Nghiên Cứu của
Bộ Ngoại Giao. Ông được coi như “kiến
trúc sư chính về chính sách Việt Nam của Hoa
Kỳ” (principal architect of U.S. Vietnam policy). Tháng giêng năm
1962 ông tŕnh bày “Một Quan Niệm Chiến Lược
cho Nam Việt Nam” (A Strategic Concept for South Vietnam), coi
việc xây dựng nông thôn Việt Nam như một ch́a
khóa đưa đến chiến thắng. Vào tháng 2 năm
1964, sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị
lật đổ, đă có một sự bất đồng
giữa Tổng Thống Johnson và Ngoại Trưởng Rusk
về chính sách Việt Nam do Hilsman là tác giả, nên Hilsman
phải từ chức. Năm 1967, Hilsman đă viết
cuốn “To Move a Nation” ca tụng chính sách Việt
Nam của Tổng Thống Kennedy và đả kích sự
leo thang chiến tranh của Tổng Tống Johnson.
Nhưng có lẽ tác
giả cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu là Averell W. Harriman. Ông
sinh năm 1891, làm Đại Sứ Toàn Quyền của Hoa
Kỳ từ 1960 đến 1961, sau đó làm Phụ Tá
Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề
Viễn Đông từ 1962 đến 1963 và Thứ Trưởng
Ngoại Giao về các vấn đề chính trị từ
1963 đến 1964. Ông được coi là “kiến trúc
sư của chính sách Chiến Tranh Lạnh” (architect of
Cold War policy) của Hoa Kỳ. Trong thời gian làm Phụ Tá
Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề
Viễn Đông, Averell W. Harriman đưa ra chủ trương
trung lập hóa Lào để bảo vệ miền Nam
Việt Nam. Chủ trương này đă bị ông Ngô
Đ́nh Nhu cựu lực phản đối.
Câu chuyện đă
xẩy ra như sau: Vào tháng giêng năm 1961, CIA đưa
James W. “Bill” Lair, một chuyên viên bán quân sự của
Hoa Kỳ đến gặp lănh tụ của HMong
Trắng là Vang Pao để thương lượng
về vấn đề vơ trang và huấn luyện cho người
HMong chống lạ Cộng Sản Lào. Lúc đầu hai bên
thỏa thuận Hoa Kỳ sẽ huấn luyện cho 1000 quân
HMong ở biên giới Thái - Lào và cung cấp vũ khí cho
họ. Sau đó việc huấn luyện và trang bị
cứ gia tăng dần, đến mùa hè năm 1961, CIA
đă huấn luyện và cung cấp vũ khí cho khoảng
9.000 quân Hmong chiến đấu. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm
1962, với sự yểm trợ của bộ đội
Việt Cộng, Pathet Lào đă chiếm được
thủ phủ Nam Tha ở bắc Lào. Trước thất
bại này, Averell W. Harriman đưa ra chủ trương trung
lập hóa Lào để ngăn chận Cộng Sản
Việt Nam mượn đất Lào xâm nhập vào
miền Nam Việt Nam. Cả Hawks trong chính quyền
Kennedy lẫn Ngô Đ́nh Nhu đều cho rằng giải
pháp này không thực tế, nhưng Tỗng Thống Kennedy
vẫn theo ư kiến của Averell W. Harriman. Ông ra lệnh
cho khoảng 3.000 nhân viên quân sự Mỹ rút qua Thái và
sau đó mở hội nghị với với Khrushchev bàn
về một giải pháp trung lập cho Lào. Ngày 23.7.1962
Tuyên Ngôn Trung Lập Lào được công bố.
Khoảng 666 cố vấn quân sự của Hoa Kỳ c̣n
lại rút ra khỏi Lào.
Giải pháp của
Averell W. Harriman đă thất bại rất thê thảm.
Theo báo cáo của CIA, sau khi tuyên bố trung lập,
khoảng 7000 bộ đội Việt Cộng chẳng
những không chịu rút khỏi Lào mà c̣n bành trướng
thêm. Trong năm 1963, chính quyền Kennedy lại cho phép CIA
huấn luyện và trang bị cho khoảng 20.000 quân HMong
để chống lại quân Bắc Việt lẫn Pathet
Lào. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă phê phán Harriman
nặng lời. Có lẽ chính những lời phê phán này
đă khiến Harriman quyết tâm t́m cách loại bỏ chính
phủ Ngô Đ́nh Diệm.
Averell W. Harriman đă
viếng thăm Việt Nam và báo động rằng chính
phủ Ngô Đ́nh Diệm tham nhũng và bất ổn. Khi
vụ Phật Giáo xẩy ra, chính Harriman đă thúc đẩy
chính phủ Kennedy làm áp lực buộc chính phủ Ngô
Đ́nh Diệm phải nhượng bộ Phật Giáo.
Phải chăng câu “Ngài nhớ, họ nói với tôi lúc
đầu về Diệm. Ông ta tham nhũng và ông ta
phải bị giết.” mà Tổng Thống Johnson đă
nhắc lại là lời của Harriman?
Michael V. Forrestal
(1927 – 1989) là Trưởng Ủy Ban Phối Hợp
Việt Nam (Vietnam Coordinating Committee) thuộc Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia từ 1962 đến 1965. Ông là người
được Averell W. Harriman nâng đỡ. Ông đă cùng
với Roger Hilsman, Giám Đốc T́nh Báo của Bộ
Ngoại Giao, đến thăm Việt Nam để
duyệt xét t́nh h́nh tại chỗ. Trong một bản phúc
tŕnh chung, cả hai đă tỏ ra nghi ngờ về
khả năng đứng vũng của chính phủ
Việt Nam Cộng Ḥa. Bản phúc tŕnh nói đến
sự ngày càng lớn mạnh của Việt Cộng và
gợi ư rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài hơn
và tốn kém hơn như đă dự trù. Bản phúc tŕnh
đồng ư trên nguyên tắc về sự h́nh thành các
ấp chiến lược do ông Ngô Đ́nh Nhu chủ xướng,
nhưng lại tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả
của kế hoạch này. Trong phần phụ đính
mật, hai tác giả đă đề nghị chính phủ
Kennedy làm áp lực buộc chính phủ Ngô Đ́nh
Diệm phải thực hiện căi cách và giải tỏa
“cơ cấu chính trị độc đoán”
(authoritarian political structure).
Nói cách khác, Michael V.
Forrstal và Roger Hilsmans đă cố t́nh làm cho các nhà lănh
đạo nước Mỹ tin rằng miền Nam Việt
Nam không thể đứng vững nếu Hoa Kỳ không
can thiệp trực tiếp bằng quân sự, và muốn
can thiệp trực tiếp bằng quân sự, phải thay
thế chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Chính bản phúc tŕnh
này đă dọn đường cho việc tiến
tới lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và
đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam.
Sau khi các biến
cố Phật Giáo xẩy ra tại Việt Nam, Roger Hilsman và
Averell W. Harriman, với sự phối hợp của Michael
V. Forrestal, đă soạn thảo công điện mang tên DEPTEL
243 chỉ thị cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge
thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ
chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Đây là loại công
điện tối mật cần hành động lập
tức (operation immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư
Lệnh Mỹ tại Thái B́nh Dương, cũng đă góp
ư kiến. Điêu khó khăn là phải làm thế nào
để qua mặt được Tổng Thống Kennedy.
Kế hoạch qua mặt này đă được ông
Robert S. McNamara, mô tả rơ trong cuốn hồi kư của ông
và sẽ được tŕnh bày ở sau.
Công điện đă
được đánh đi khẩn cấp vào tối
thứ bảy 24.8.1993. Công điện ghi rơ: “Chính
phủ Mỹ không thể chấp nhận t́nh trạng
quyền hành nằm trong tay của Nhu. Phải cho Diệm cơ
may loại trừ Nhu cùng phe nhóm và thay thế bằng
những nhân vật chính trị và quân sự khá nhất
sẵn có. Mặc dầu những cố gắng của ông,
nếu Diệm vẫn cứng đầu và từ
chối, chúng ta phải đối phó với sự
thể rằng không thể giữ lại ngay chính Diệm
nữa.”
Để yểm
trợ cho chủ trương này, các kư giả Davis
Halberstans của New York Times, Neil Sheehen của UPI và Malcolm
Browne của AP đă viết những bài tố cáo chính
quyền Ngô Đ́nh Diệm chuyên chế và tham nhũng
với nhận định rằng không thể thắng
trận ở Việt Nam với chính quyền Ngô Đ́nh
Diệm.
V́ công diện này không
được Bộ Trưởng Ngoại Giao, Bộ Trưởng
Quốc Pḥng và Giám Đốc cơ quan t́nh báo CIA xem xét
trước nên đă có những sự tố cáo lẫn
nhau giũa các cơ quan này về việc làm nói trên. Nhưng
rồi bức công điện đó cũng không hề
được thu hồi.
Nhận được
công điện trên, sáng thứ hai 26.8.1963, Đại
Sứ Henry Cabot Lodge triệu tập ngay cuộc họp
gồm tất cả các ngành của Ṭa Đại Sứ
Mỹ ở Việt Nam để lập kế hoạch
lật đổ Tổng Thống Diệm. Đại
Sứ Henry Cobot Lodge không chỉ quyết định
phải giết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông
Ngô Đ́nh Nhu, mà c̣n quyết định phải giết
cả ông Ngô Đ́nh Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung.
Trong công điện ngày 5.10.1963 gởi về Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ, Đại Sứ Cabot Lodge đă dành
một đoạn để đề cập đến
những người bị coi là nguy hiểm nhất ở
miền Nam. Dương Văn Minh cho ông biết có ba người
nguy hiểm nhất là Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn
và Dương Văn Hiếu. Nhưng Lucien Conein luu ư
rằng Lê Quang Tung đáng sợ hơn. Với
nhận định như thế, ngoài Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm, ông Lodge thấy rắng cần phải
giết thêm ba người nữa là ông Ngô Đ́nh Nhu, ông
Ngô Đ́nh Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Thiếu tá
Lê Quang Triệu tuy không có tên trong sổ đen, nhưng
đem mạng tới nạp nên đă bị giết luôn!
Riêng cái chết của Đại Tá Hải Quân Hồ
Tấn Quyền vào sáng 1.11,1963 có lẽ do quyết định
của các tướng lănh Việt Nam.
TRÁCH NHIỆM
CỦA TỔNG THỐNG KENNEDY
Trong Chương III
của cuốn hồi kư, dưới tiêu đề “Mùa
Thu Định Mệnh Năm 1963” (24.8 đến
22.11.1963), ông Robert S. McNamara đă tŕnh bày khá rơ ràng
về quyết định của Hoa Thịnh Đốn
lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Ông
viết:
“Khi báo cáo về
t́nh trạng xáo trộn tới tấp gởi về Hoa
Thịnh Đốn vào ngày 24 tháng tám, các nhân viên có
nhiệm vụ ứng trực nhận thấy rằng cơ
hội để có hành động chống lại ông
Diệm đă đến. Trong đêm đó Hoa Kỳ đă
đề ra một kế hoạch đảo chánh, một
hành động trong số những hành động quan
trọng nhất của hai trào Tổng Thống Kennedy và
Johnson.
“Người
khởi xướng hành động này là Roger Hilsman Jr., nhân
vật kế nhiệm Averell Harriman, giữ chức Phụ
Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông
Vụ. Hilsman là một người thông minh, hay tự ái và
thích nói nhiều, tốt nghiệp trường vơ bị
West Point, từng có kinh nghiệm về du kích chiến trong
thời Đệ Nhị Thế Chiến và khá am tường
về t́nh h́nh. Ông này cho rằng cuộc chiến không
thể thắng được nếu c̣n ông Diệm, v́
thế phải t́m cách gạt ông ta ra."
“Chính Roger Hilsman
đă thảo bức điện tín gởi cho Đại
Sứ Henry Cabot Lodge ra lệnh đảo chánh. Bức điện
này được ông Averell Harriman vừa được
cử giữ chức Thứ Trưởng Ngoại Giao
chấp thuận ngay. Ông Michael Forrestal, một thành viên
của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, đă gởi
ngay cho Tổng Thống Kennedy đang ở Hyamis Port với
câu “Đă được Ball của Bộ Quốc Pḥng
chấp thuận... Đề nghị cho tôi biết nếu
Tổng Thống muốn... hoản hành động.” Ông
George Ball gọi cho Tổng Thống tŕnh bày nội vụ
và được Tổng Thống trả lời rằng
ông đồng ư nếu các cố vấn của ông cũng
đồng ư như vậy. Sau đó ông George Ball gọi
ngay cho Ngoại Trưởng Dean Rusk tại New York báo tin
Tổng Thống đă chấp thuận.”
Qua đoạn
ngắn nói trên, chúng ta thấy rằng quyết định
lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă
được Hoa Kỳ dự tính từ lâu và vụ
Phật Giáo là một cơ hội được tạo
ra để chính phủ Hoa Kỳ thực hiện dự tính
đó. Roger Harriman đă nói rơ: “Cuộc chiến không
thể thắng được nếu c̣n ông Diệm, v́
thế phải t́m cách gạt ông ta ra.”
Sau khi bức điện
tín ra lệnh đảo chánh gởi đến Saigon, ông
McNamara coi đó là một sự qua mặt Tổng
Thống. Theo ông, lúc đó chỉ có Thứ Trưổng
Harriman, Phụ Tá Hilsman ở Bộ Ngoại Giao và Mike V.
Forrestal ở Ṭa Bạch Ốc là những người
nhất tâm làm đảo chánh mà thôi. Trong cuộc họp
ngày 27.8.1963, khi nghe đọc xong bản tường tŕnh
của ông William E. Colby về t́nh h́nh Việt Nam, Tổng
Thống Kennedy tỏ ư muốn hoản lại cuộc
đảo chánh v́ thấy chưa cần, nhưng Hilsman
đ̣i làm ngay. Tổng Thống ra lệnh đánh điện
cho ông Lodge và tướng Harking hỏi nên tiến hành
đảo chánh hay nên lui. Tổng Thống đang lưỡng
lự trong việc lật đổ ông Diệm th́ tại
Saigon, ông Lodge xúc tiến một cách nhanh chóng việc
thực hiện đảo chánh.
Cũng trong cuốn
hồi kư dẫn trên, ông McNamara cho biết những ǵ
đă xẩy ra tại Ṭa Bạch Ốc sau khi nghe tin
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị giết.
Ông viết:
“Chín giờ ba mươi
sáng 2 tháng 11, chúng tôi gặp nhau lại để tiếp
tục cuộc họp hôm qua. Khi buổi họp bắt
đầu, chưa ai rơ số phận ông Diệm và ông
Nhu ra sao. Đến nữa chừng th́ từ Pḥng T́nh H́nh,
Mike Forrestal tông cửa chạy vào. Văn pḥng CIA tại
Saigon báo cáo rằng họ được các nhân vật
trao đổi công tác của Saigon cho biết hai anh em ông
đă tự vẫn “trên đường từ thành
phố đến Bộ Tổng Tham Mưu”.
“Khi Tổng
Thống Kennedy đọc mẫu tin này, mặt ông tái xanh
như tàu lá. Tôi chưa hề thấy ông xúc động
mạnh đến như thế bao giờ. Forrestal
thuật lại rằng cái chết của hai người
“đă làm cho ông rúng động một cách sâu xa, gây bàng
hoàng trong tâm trí và đánh mạnh vào tiềm thức tín
ngưởng... làm lung lay ḷng tin tưởng... về
những ǵ ông đă khuyến cáo liên quan đến Nam
Việt Nam.” Arthur Schlesiger Jr. ghi nhận rằng “Tổng
Thống buồn thảm và bối rối cùng cực”,
tinh thần suy sụp chưa từng thấy từ sau
vụ thất bại ở Vịnh Con Heo.”
Trong bài “Chúng ta
đă lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp”
đăng trên tờ Newsweek số ra ngày 17.4.1995, ông
McNamara đă phê b́nh Ngoại Trưởng Dean Rusk và
Tổng Thống Kennedy như sau:
“Ngoại Trưởng
Dean Rusk, một người quên ḿnh nhất, một cá nhân
tận tụy phục vụ Hoa Kỳ, đă hoàn toàn
thiếu sót trong việc quản trị Bộ Ngoại Giao
và giám sát Đại Sứ Henry Cabot Lodge Jr., và cũng
đă không tận t́nh tham dự các buổi họp
của Tổng Thống. Và Tổng Thống Kennedy, người
mà tôi quy trách ít nhất, người đă phải lo toan
nhiều vấn đề khác nữa, đă thiếu sót
trong việc kết hợp một chính phủ Hoa Kỳ
chia rẽ. Khi phải chạm trán với những lựa
chọn khó khăn, ông không quyết định trong
một thời gian quá lâu.”
Sự tiết lộ
của ông McNamara về việc Bộ Trưởng Dean Rusk
hoàn toàn thiếu sót trong việc quản trị Bộ
Ngoại Giao và giám sát các hành động của Đại
Sứ Henry Cabot Lodge khiến nhiều người suy đoán
rằng ông Lodge đă tự ư ra lệnh giết ông
Diệm và ông Nhu, đặt Hoa Thịnh Đốn trong
một t́nh trạng đă rồi. Nhưng nay Tổng
Thống Johnson lại cho biết việc hạ sát ông
Diệm đă được chính quyền Kennedy qưyết
định trước. Tuy nhiên, ông không nói rơ chính
Tổng Thống Kennedy đă ra lệnh giết ông
Diệm. Ông chỉ nói: “Họ khởi đầu và nói:
‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi v́ ông ta không
tốt. Chúng ta hăy, chúng ta hăy lật đổ ông ta. Và
chúng ta đă làm.” Họ là ai? Có Tổng Thống
Kennedy trong đó không? Ông McNamara đă mô tả t́nh
trạng khủng hoảng của Tổng Thống Kennedy khi
nghe tin ông Diệm bị giết và cho rằng Tổng
Thống Kennedy đă bị ba tên Roger Hilsman Jr., Averell W.
Harriman và Michael V. Forrestal đánh lừa.
Kư giả Evan Thomas
cho rằng “Kennedy chỉ ủng hộ việc lật
đổ ông Diệm chứ không hề ra lệnh giết
và có lẽ cũng không tiên đoán được sự
việc xẩy ra như vậy.” Nhưng trong cuốn “The
dark side of Camelot”, Seymour M. Hersch cho biết trong cuộc
phỏng vấn năm 1998, Lucien Conein, người chỉ
đạo trực tiếp cuộc đảo chánh, có nói
rằng Kennedy “phải biết trước” (must
have known) chuyện đó. Mặc dầu Lucien Conein không
chứng minh được sự suy đoán của ông ta,
một số người căn cứ vào câu nói này để
cho rằng Kennedy biết trước chuyện ông Diệm
phải bị giết.
Dầu sao, cho đến
nay, chưa có tài liệu nào cho thấy chính Tổng
Thống Kennedy đă ra lệnh giết ông Diệm. Trái
lại, chiều thứ bảy 2.11.1963, lúc 6 giờ,
Tổng Thống Kennedy cùng vợ và các con dùng trực thăng
bay về ngôi nhà mới của ông ở Rattlesnake Mountain.
Trong buổi cơm tối, bà Mary Gimbel, một người
bạn của Tổng Thống, đă nói với ông
về ông Diệm và ông Nhu:
- Họ đúng là
những nhà độc tài.
Tổng Thống
trả lời:
- Không, họ
ở trong một t́nh trạng khó khăn. Họ đă làm
cái tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho quê
hương họ.
Tuần tới chúng
tôi sẽ nói về hành động của “bọn ác ôn
côn đồ đáng nguyền rủa” mà Tổng
Thống Johnson đă đề cập tới.
Tú Gàn