TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM

 

XĂ  HỘI  CHỦ  NGHĨA

                                              QUA  THI  CA

                                                                                                                  Lê  Thương

         Cánh hoa Miền Nam đang phơi phới dưới trời xuân bỗng bị cơn giông giặc cộng thổi tan tác từng mảnh vào ngày 30-4-1975, ngày mở đầu trang sử đen tối nhất của nhân dân Việt Nam với bao tủi nhục đau thương chất ngất. Cho đến hôm nay dân Việt vẫn quằn quại trong đói khổ, đọa đày. Luồng gió tự do dân chủ đă thổi tan các chế độ cộng sản tại Đông Âu thế nhưng tại Việt Nam, những tiếng gào thét đ̣i tự do dân chủ đă bị bịt mồm, bóp nghẹt một cách vô liêm sỉ, dân Việt vẫn c̣n bị kềm kẹp, điêu linh, tang tóc trong vũng lầy Xă Hội Chủ Nghĩa.  

      Là nạn nhân của sự cai trị bạo tàn, người dân, nhất là nhân dân Miền Nam, từ ngày 30-4-1975 cho đến nay vẫn kiên tŕ dùng một thứ khí giới đặc biệt, vô h́nh là thi ca đối kháng để chống lại chính quyền. Ngoài tinh thần chống cộng, những vần thơ đối kháng bạo quyền cũng đă đóng góp một phần cho kho tàng văn chương nước nhà vốn đă phong phú lại càng phong phú thêm.

        Sau ngày 30-4-1975, một nhà thơ kém may mắn c̣n kẹt lại ở Việt Nam đă làm một bài thơ ngụy trang sự tưởng nhớ người yêu để nói lên niềm khát vọng Tự Do đă mất:

Thương nhớ Em hoài, Em ở đâu?

Vắng Em đời nặng trĩu u sầu.

Khi c̣n gần gũi sao hờ hững?

Nay đă xa vời mới khổ đau.

Chẳng kém đất khô mong được nước,

C̣n hơn tằm đói đợi cho dâu.

Mang mang trường hận hai hàng lệ,

Thương nhớ Em hoài Em ở đâu?

        Nền kinh tế của Xă Hội Chủ Nghĩa là nền kinh tế thụt lùi, tụt hậu, tuột dốc. Mấy chục năm nay người dân chưa bao giờ thấy đảng “khôn” về kinh tế cho nên nhân dân phải chịu cảnh đói khổ dài dài. Xin hăy nghe những vần thơ ta thán về nền kinh tế của đảng và cái đói khổ của đồng bào:

Dân ta sung sướng nhất trần ai,

Rơ cảnh thần tiên thật chẳng sai.

Trố mắt con ngồi nh́n rổ sắn,

Chồn chân mẹ đứng đợi phần khoai.

Nửa tô cháo trắng đầy ngang dạ,

Một áo thun đen rách sả vai.

 

Không thuốc, bệnh nằm mong giải thoát,

Trên tường ảnh bác vẫy tay cười!

         Với nền kinh tế phá sản, cộng thêm chính sách xiết chặt bao tử của bạo quyền khiến người dân nghèo đói xác xơ. Trước cảnh đó,  nhà thơ viết nên bài:

Vác gậy đi thăm mấy bạn già,

Vợ chồng anh ấy đói như ma.

Bà bươi mô rác t́m que củi,

Ông dạo bờ ao nhặt trái cà.

Hai cháu ḿnh trần ŕnh bắt ếch,

Một con chó ghẻ ngủ trông nhà.

Gặp nhau chủ khách ̣a lên khóc,

Tâm sự ngàn đời khó nói ra!

        Cộng sản dùng mọi thủ đoạn gian ác để bóc lột người dân cho đến trắng tay, như bắt chồng đi  cải tạo, đày vợ con đi vùng kinh tế mới, tài sản nhà cửa bị tịch thu. Quá ức, người dân đă làm nên bài thơ lấy vần năm chữ “NHÀ TA ĐÀ RA MA”, được nhiều người rỉ tai th́ thầm truyền tụng:

Cú rũ ngồi như chó giữ NHÀ,

Nhà c̣n chi nữa ngoại trừ TA.

Ba năm tọa thực tiền không cánh,

Một cuộc tang thương chuyện quá ĐÀ.

Tủ kính âm thầm “đi” chẳng hẹn,

Bàn thờ nấn ná họa may RA.

Thần tài đă kư tờ ly dị,

Thôi tớ làm thơ cợt với MA.

        Bài thơ vừa hay vừa nói lên được bối cảnh khốn cùng của người dân nên khá thịnh hành và đă có người lén lút họa lại:

Bỗng chốc người dân hóa không NHÀ,

Bây giờ chỉ c̣n Đảng của TA.

Ngày ngày tuột dốc phanh không kịp,

Tháng tháng thi đua hết sức ĐÀ.

Khai thác mỏ dầu xăng chạy mất,

Nông trường sản xuất lúa không RA.

Hàng hàng lớp lớp dân ra biển,

Nhà nước thôi đành ở với MA.

        Và hai bài thơ trên đă vượt “bức màn sắt” bay ra hải ngoại, được một nhà thơ yêu nước ở hải ngoại cảm khái làm một bài thơ họa nguyên vận để cảm thông với đồng bào đang quằn quại ở quê nhà:

Quân giặc ngày nay đă chiếm NHÀ,

Sao c̣n chưa tỉnh hỡi phe TA?

Mang danh phục quốc tranh nhau loạn,

Hám lợi, tham danh chạy quá ĐÀ.

Thân thuộc ngục tù đày đọa măi,

Đồng bào đói khổ thoát chưa RA.

Nhất tâm đoàn kết xin chung sức,

Phất ngọn cờ vàng dẹp quỷ MA.

        Ngày Tết đến, dân tộc ta có mỹ tục là chiều 30 làm mâm cơm để cúng ông bà, cầu nguyện vong linh người quá cố về sum họp với con cháu trong ba ngày Tết. Nhưng dưới chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, đời sống quá cơ cực người dân đă phải đem bán tất cả đồ đạc trong nhà để lo miếng ăn và phải bán luôn cả bàn thờ ông bà. Trong cuốn “Tư Bản Luận”, Marx có nói rằng “V́ tham tiền lời, tư bản bán cả bàn thờ ông văi”. Nhưng người ta chưa thấy tư bản bán bàn thờ ông văi mà đả thấy người dân bán bàn thờ tổ tiên sau ngày Cộng Sản Bắc Việt chiếm Miền Nam v́ đói:

Ngày ba mươi Tết cúng ông bà,

Ḿnh giả vờ quên, vợ nhớ ra,

Bán chiếc đờn c̣ mua khúc cá,

Đem đôi hàm ếch đổi con gà.

Cháu từ Đồng Tháp cho bị gạo,

Bạn ở Cao Nguyên tặng gói trà.

Chợt nhớ bàn thờ “đi” tháng trước,

Thôi đành lễ bái trước hàng ba!

        Dưới chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, người dân đă sống khổ như vậy mà người chết cũng không được ngàn thu an nghỉ. Nhà nước đă có một hành động vô cùng phi luân là ra lệnh quật mồ, bốc mả khiến dân chúng phẫn uất viết lên những vần thơ:

Cộng sản vô Nam đẹp đẽ thay,

Bào thai bị nạo, bố đi đày.

Sống đây đă chịu trăm điều nhục,

Chết nọ sao đành vạn sự cay?

Lệnh đuổi nghĩa trang ma cuốn gói,

Máy cày mồ mả, xác tan bay.

Thôi th́ người sống cam cơ khổ,

Chết c̣n đày đọa nữa chi đây?

 

        Và một bài thơ khác về quật mồ, bốc mả:

Kể hàng vạn mồ ở đô thành,

Chúng bắt đào đi mất vệ sinh.

Hơi thối xông lên thành khí độc,

Bệnh nguy lan khắp hại dân lành.

Dă man với cả người vong tử,

Bạo khốc nào hơn lũ súc sanh?

Mở miệng nói ra không biết thẹn,

Những là “nhân đạo” với “văn minh”.

        Để vỗ về người dân đói khổ, Đảng đưa ra những chương tŕnh, kế hoạch to lớn hầu lừa bịp và đưa người dân vào “Giấc Mộng Kê Vàng”, đó cũng là đầu đề của một bài lục bát khá hay:

Đảng ta soạn thảo chương tŕnh,

Chỉ năm năm nữa nước ḿnh giàu to.

Ruộng nương thóc lúa đầy bồ,

Kỹ công xây dựng cơ đồ khắp nơi.

Cửa nhà san sát chọc trời,

Phố phường xe ngựa chật người rong chơi.

Bữa cơm cá thịt đầy nồi,

Lượt là tiền bạc mọi người giàu sang.

Cơi trần thế, cảnh thiên đàng,

Việt Nam tiến bước trên đường vinh quang.

Đêm xuân một giấc mơ màng,

Dân ta nằm Mộng Kê Vàng sướng chưa?

        Hẳn chúng ta c̣n nhớ bài thơ “Bán Than” của danh tướng Trần Khánh Dư đời Trần. Khi quân Nguyên xâm lăng nước ta lần thứ nhất vào năm Đinh Tỵ 1257, ông lập được nhiều chiến công nhưng sau v́ có tội nên bị vua cách chức phải về Chí Linh tỉnh Hải Dương làm nghề bán than để sinh nhai, ông cảm khái làm bài thơ “Bán Than” c̣n truyền tụng đến ngày nay. Tương truyền rằng nhà vua nghe được bài thơ này nên cảm động vời ông trở về triều trả lại chức tước cũ. Và danh tướng Trần Khánh Dư đă oanh liệt thắng quân Nguyên trong trận lịch sử Vân Đồn, mở đầu cho trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Bài thơ “Bán Than” của Trần Khánh Dư như sau:

Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn,

Hỏi chi bán đó, gửi rằng: Than

Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,

Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.

 

Ở với lửa hương cho vẹn tiết,

Thử xem vàng đá có bền gan.

Nghĩ ḿnh nhem nhuốc toan nghề khác,

Lại sợ trời kia lắm kẻ hàn.

        Rồi vào năm 1977, một nhà giáo kiêm nhà văn của Miền Nam, có bút hiệu  là “Thầy Khóa Tư”, đang ở trại cải tạo, được giao phó nhiệm vụ bón phân rau cỏ của trại. Công việc của thầy là xúc  phân từ nhà cầu, gánh phân, quấy phân rồi múc đem ra tưới rau. Nhà giáo tức cảnh làm ngay một bài thơ nhại bài “Bán Than” của danh tướng Trần Khánh Dư. Bài thơ nhại như sau:

Một gánh càn khôn quẩy tới gần,

Hỏi rằng chi đó, dạ rằng: Phân

Cục kia đâu biết bao nhiêu lượng,

Băi nọ nào hay được mấy cân.

Xoạc cẳng nhón lên e đuối sức,

Ch́a vai gánh thử thấy c̣n gân.

Nghĩ ḿnh hôi hám toan nghề khác,

Lại sợ anh em thiếu khẩu phần.

        Nghe đâu bài thơ nhại hóm hỉnh này tới tai cán bộ quản giáo của trại và chúng gọi thầy lên “làm việc”. Chúng bắt bẻ, kết tội thầy đủ điều rồi cuối cùng phạt thầy hai tuần lễ nằm biệt giam.  Và chúng ta cũng c̣n nhớ bài thơ Đường nổi tiếng “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu, bài này đă được cụ Tản Đà dịch:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng hạc riêng lầu c̣n trơ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Ngh́n năm mây trắng bây giờ c̣n bay.

Hán Dương sông cạn cây bày,

Băi xa anh vũ xanh đầy cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai?

         Thế rồi,  một nhà thơ c̣n kẹt dưới chế độ cộng sản ở quê nhà đă nhại lại bài thơ nổi tiếng trên với những vần thật tài t́nh, đọc lên ta thấy sảng khoái về cả hai mặt nghệ thuật lẫn tinh thần chống cộng:

Thiệu Kỳ hai kẻ đi đâu,

Cho Dinh Độc Lập âu sầu nằm trơ.

Thiệu Kỳ đă tếch từ xưa,

Để cho Việt Cộng bây giờ vào đây.

Dép râu, nón cối phơi đầy,

Văn chương nghệ thuật phen này “bán son”.

Quê hương tím ngắt hoàng hôn,

Bữa no bữa đói, thêm buồn ḷng ai?

        Trong thời kháng chiến, vào khoảng năm 1945, một hôm nhà thơ “con cóc” Hồ Chí Minh ghé viếng đền thờ Đức Trần Hưng Đạo, có làm một bài thơ “Viếng Đền Kiếp Bạc”. Trong bài thơ Hồ Chí Minh gọi Đức Thánh Trần bằng “bác” xưng “tôi”, tự coi ḿnh là bạn ngang hàng với Đức Thánh Trần khiến cho nhiều người phẫn nộ. Bài thơ con cóc của Hồ Chí Minh như sau:

Suy ra tôi bác cũng anh hùng,

Sau trước cùng chung giữ núi sông.

Bác đuổi giặc Nguyên thanh kiếm bạc,

Tôi xua quân Pháp ngọn cờ hồng.

Bác đưa dân tộc qua nô lệ,

Tôi dẫn năm châu đến đại đồng.

Bác có khôn thiêng cười một tiếng,

Giùm tôi kháng chiến sớm thành công.

        Trước sự hỗn xược đó, một số nhà thơ bất b́nh nên làm những bài họa xỉ mắng họ Hồ, trong số đó có một nhà giáo kiêm thi sĩ, sau khi đi cải tạo ra đă làm bài họa như sau:

Cu-li bồi bếp cũng xưng hùng,

Tao thẹn cùng mày một núi sông.

Tao trốn nguy cơ bầy quỷ đỏ,

Mày hơ dân tộc đống than hồng.

Tao mua hạnh phúc chừng năm lượng,

Mày bán giang sơn được mấy đồng?

Ḥm kiếng mày nằm sung sướng nhỉ?

Coi chừng chỉ một phát thần công!

        Sau đây là bài họa của nhà thơ Nguyễn Đức Hiền, ở Úc:

Không suy cũng biết đại gian hùng,

Cũng biết là thằng bán núi sông.

Mày dâng tổ quốc trong canh bạc,

Tao khóc non sông nhuộm máu hồng,

Mày đưa cả nước vào nô lệ,

Tao với quê hương kháng đại đồng.

Mày có linh thiêng ngồi bật dậy,

Cùng tao nói chuyện “cái thành công”.

        Và bài họa của cụ Đào Hữu Dương, ở Hoa Kỳ. Cụ Đào Hữu Dương là Thẩm Phán Ṭa Thượng Thẩm Sài-G̣n trước năm 1975, cũng là một thi sĩ, rất giỏi về thơ Đường:

Thảo khấu như mi dám bảo hùng?

Thánh Trần uy dũng tạc non sông.

Ngài pḥ tổ quốc qua gươm bạc,

Mi nhuộm giang sơn ngập máu hồng.

Ngài cứu giang sơn qua khói lửa,

Mi đem trăm họ giết đầy đồng.

Đền thiêng phản quốc đừng lai văng,

Hại nước, tàn dân, dám kể công?

        Kể từ ngày 30-4-1975 cho đến nay, ngụy quyền Xă Hội Chủ Nghĩa đă vẽ nên bức tranh đen tối cho quê hương đất nước bằng cách đưa đồng bào vào cảnh lầm than đói khổ, đói khổ đủ mọi thứ, từ cơm áo cho đến tự do, từ vật chất cho đến tinh thần. Cái khổ tràn trề triền miên của người dân đă biến thành mối thâm thù đối với chế độ XHCN. Và qua những vần thơ đối kháng ta thấy t́nh h́nh chống đối ngụy quyền của người dân như những đợt sóng ngầm chỉ chờ cơ hội để biến thành những ngọn sóng thần nhận ch́m chế độ cộng sản.

 

                                                                                                    Lê  Thương

                                                                                         Richmond - Virginia

 

 

 
 
 



Mọi tin tức, bài vở  muốn đăng trên website TQLC/VN xin email:
  bixitrum@yahoo.com